Thiên hai mươi hai: TÀNG KHI PHÁP THỜI LUẬN

 Hoàng Đế hỏi:

Hợp thân h́nh con người, bắt chước bốn mùa, năm hành để điều trị… Thế nào là thuận, thế nào là nghịch, thế nào là đắc, thế nào là thất…? Xin cho biết rơ [1].

 Kỳ Bá thưa rằng:

Năm hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Thay nhau qúi, thiện, để biết chết sống, để quyết thành bại, và định cái khí của năm Tàng, cùng cái lúc hơi bớt cái lúc nặng thêm... Rồi do đó dự tính khi chết và sống [2].

 Hoàng Đế nóùi:

Xin cho biết rơ căn nguyên... [3]

 Kỳ Bá thưa rằng:

Can chủ về mùa Xuân, kinh khí do Túc Quyết âm thiều dương chủ trị, ứng với hai ngày Giáp Aát. Can khổ về sự cấp (tức thái quá), kíp ăn vị cam để cho hoăn lại [4].

 Tâm chủ về mùa hạ, kinh khí do thủ Thiếu âm Thái dương chủ trị, ứng với hai ngày Bính Đinh. Tâm khổ về sự hoăn (chậm chạp tán mạn), kíp ăn vị toan để cho hậu lại [5].

Tỳ chủ về Trường hạ, kinh khí do Túc Thái âm Dương minh chủ trị, ứng với hai ngày Mậu, Lỷ, Tỳ thổ về sự thập, kíp ăn vị khổ để cho ráo lại [6].

 Phế chủ về mùa thu, kinh khí do Thủ Thái âm Dương minh chủ trị, ứng với hai ngày Canh Tân, Phế, khổ về khí nghịch lên, kíp ăn vị khổ để cho tiết đi [7].

 Thận chủ về mùa Đông, kinh khí do Túc Thiếu dương, Thái âm chủ trị, ứng với hai ngày Nhâm Qúi, Thận khổ về sự táo (ráo), kíp ăn vị tân để cho nhuận, do đó khai được tấu lư, sinh ra tân dịch và thông khí... [8]

 Bệnh ở Can, khỏi về mùa Hạ, mùa Hạ không khỏi tới mùa Thu sẽ nặng thêm. Nếu mùa Thu không chết, sẽ đứng bệnh về Đông và khỏi hẳn, về mùa Xuân. Cấm hóng gió (theo nghĩa đoạn trên này và cả dưới đây, chuyên nói về sinh khắc, duyệt giả chú ư) [9].

 Bệnh ở Can, khỏi về ngày Bính, Đinh, ngày Bính, Đinh không khỏi, sẽ nặng thêm về ngày Canh, Tân. Nếu ngày Canh, Tân không chết sẽ đứng bệnh về ngày Nhâm, Qúi, và khỏi hẳn về ngày Giáp, Aát [10].

 Bệnh ở Can, sáng sớm tỉnh táo, chập tối nặng, nửa đêm yên [11].

 Can khí muốn sơ tán, kíp ăn vị tân để cho tán; dùng vị tân để bổ, vị toan để tả [12].

 Bệnh về tâm, khỏi ở mùa Trường hạ, mùa trường hạ không khỏi, sẽ nặng ở mùa Đông. Nếu mùa Đông không chết, sẽ đứng bệnh ở mùa Xuân, khỏi hẳn ở mùa Hạ [13].

 Cấm ăn thức  nóùng, mặc áo nóùng [14].

 Bệnh về Tâm, khỏi ở ngày Mậu, Kỷ, ngày Mậu Kỷ, không khỏi, nặng ở ngày Nhâm, Qúi. Nếu ngày Nhâm Qúi không chết, sẽ đứng bệnh ở ngày Giáp, Aát khỏi hẳn ở ngày Bính, Đinh [15].

 Bệnh về Tâm, đúng trưa tỉnh táo, nửa đêm nặng, sáng sớm yên [16].

 Tâm muốn nhuyễn (mềm mại), kíp ăn vị hàn để cho nhuyễn, dùng vị hàn để bổ, vị cam để tả [17].

Bệnh về Tỳ, khỏi ở mùa Thu, mùa Thu không khỏi, sẽ nặng ở mùa Xuân. Nếu mùa Xuân không chết, sẽ đứng bệnh ở mùa Hạ, khỏi ở mùa Trường hạ [18].

 Cấm ăn thức có tính ấm, ăn nó, và ở nơi ẩm mắc áo ướt [19].

 Bệnh về Tỳ, khỏi ở ngày Canh, Tân, ngày Canh tân không khỏi sẽ nặng ở ngày Giáp, Aát. Nếu ngày Giáp Aát không chết, sẽ đứng bệnh ở ngày Bính, Đinh, khỏi hẳn ở ngày Mậu, Kỵû... [20]

 Bệnh về Tỳ, lúc xế chiều tỉnh táo, lúc mặt trời mọc nặng, chập tối yên [21].

 Tỳ muốn được thư hoăn, kíp ăn vị cam để cho thư hoăn, dùng vị khổ để tả, vị cam để bổ [22].

 Bệnh về Phế, khỏi ở mùa Đông, mùa Đông không khỏi, nặng ở mùa Hạ. Nếu mùa Hạ không chết, sẽ đứng bệnh ở mùa Trường Hạ, khỏi hẳn về mùa Thu [23].

 Cấm ăn uống thứ lạnh và mặc áo lạnh [24].

 Bệnh về Phế, khỏi ở ngày Nhâm, Qúi, ngày Nhâm, Qúi không khỏi, sẽ nặng ở ngày Bính, Đinh. Nếu ngày Bính, Đinh không chết, sẽ đứng bệnh ở ngày Mậu, Kỷ, khỏi hẳn ở ngày Canh, Tân [25].

 Bệnh về Phế, chập tối tỉnh táo, đúng trưa nặng, nửa đêm yên [26].

 Phế muốn thâu liễm, kịp ăn vị toan cho thâu liễm. Dùng vị toan bổ, vị tân tả [27].

 Bệnh về Thận, khỏi ở mùa Xuân, mùa Xuân không khỏi, sẽ nặng ở mùa Trường hạ. Nếu mùa Trường Hạ không chết, sẽ đứng bệnh ở mùa Thu, khỏi hẳn ở mùa Đông.

Cấm ăn các thức xào, nướng có tính nóng vào áo hơ (là) nóng [28].

 Bệnh về Thận, khỏi ở ngày Giáp Aát, ngày Giáp Aát không khỏi, sẽ nặng ở ngày Mậu, Kỷ. Nếu ngày Mậu, Kỷ không chết, sẽ đứng bệnh ở ngày Canh, Tân, khỏi hẳn ở ngày Nhâm Qúi [29].

 Bệnh về Thận, nửa đêm tỉnh táo, gặp gió tứ qúi (Th́n, Tuất, Sửu, Ty) nặng, xế chiều yên [30].

Thận muốn kiên, kịp ăn vị khổ để cho kiên, dùng vị khổ để bổ, vị hàm để tả[31].

Phàm tà khí phạm vào người, lấy cái “thắng” để cùng thêm lên (Như Can Bệnh, thêm lên về Canh, Tân v.v) gặp cái “sở bất thắng” thời càng nặng, gặp cái “sở sinh” thời đứng bệnh. Gặp đúng vào bản vị của ḿnh sẽ khỏi. Tất phải hiểu thấy cái mạch của năm Tàng, mới có thể nóùi được lúc nhẹ, lúc nặng và dự đoán được cái thời kỳ sinh tử [32].

Bệnh về Can, đau ở hai bên sườn, dẫn xuống Thiếu phúc, khiến người hay nóä. Can hư thời mắt lờ mờ trông không rơ, tai nghe không tỏ, hay sợ như sắp bị người bắt. Nên lấy ở hai kinh mạch Quyết âm và Thiếu dương [33].

 Khí nghịch thời đầu nhức, tai điếc, mà sưng, nên bớt huyết đi (hoặc tả bớt) [34].

 Bệnh về tâm, trong hung đau, chi lạc ở hiếp đầy, dưới hiếp đau, khắp khoảng xương vai, lưng đều đau, hai cánh tay cũng đau [35].

Tâm hư thời hung phúc to ra, dưới hiếp và yêu cùng rút mà đau. Lấy ở hai kinh mạch Thiếu Aâm, Thái dương, và trích huyết dưới lưỡi [36].

 Nếu bệnh biến, lại phải thích thêm huyệt Aâm khích cho ra huyết [37].

 Bệnh về Tỳ, ḿnh nặng, cơ nhục nhăo nát tê dại, chân không co lại được, lúc đi, đau trong xương, dưới chân cũng đau [38].

 Tỳ hư thời bụng đầy, ruột sôi, xôn, tiết thức ăn không đều. Nên lấy huyệt ở các kinh mạch Thái âm, Dương minh và Thiếu âm [39].

 Bệnh về phế, suyễn, khái, nghịch khí, vai, lưng đau, hăn ra, cầu âm (xương khu), vế, đầu gối, xương ống đều đau [40].

 Phế hư thời không thở được dài, tai điếc, cuống họng khô. Lấy huyết ở ngoài kinh mạch Thái âm, Túc Thái Dương và bên trong quyết âm [41].

 Bệnh về thận, bụng to, ống chân sưng, suyễn và khái, ḿnh nặng, lúc ngủ toát mồ hôi, ghê gió [42].

 Thận hư thời trong bụng đau, đại phúc, tiểu phúc đều đau, quyết lănh, ư tứ không vui

Nên lấy huyết ở kinh mạch Thiếu âm và Thái âm [43].

 Can sắc xanh, nên ăn vị ngọt, nghạnh mễ, thịt ḅ, quả táo qùi... Đều thuộc về vị ngọt [44].

 Tâm sắc xích, nên ăn vị toan, tiểu đậu, thịt chó, quả mạn, rau cửu... Đều thuộc về vị toan [45].

 Phế sắc bạch, nên ăn vị khổ, lúa mạch, thịt dê, quả hạnh, rau giới (củ kiệu), đều thuộc về vị khổ [46].

 Tỳ sắc hoàng, nên ăn vị hàn, đại đậu, thịt lợn, quả lật, rau hoặc... đều thuộc về vị hàm [47].

 Thận sắc hắc, nên ăn vị tân, hoàng thử, thịt gà, quả đào, củ hành... đều thuộc về vị tân [48].

 Vị tân thời tán, vị toan thời thâu, vị cam thời hoăn, vị khổ thời kiên, vị hàn thời nhuyễn [49].

 Các thứ thuốc có tính chất độc công trị bệnh tà [51]. Năm giống lúa để chuyên về sự nuôi năm Tàng [52]. Năm thứ quả để giúp cho sự nuôi[53]. Năm loài súc để giúp sự bổ ích [54]. Năm thứ rau để cho đầy đủ thêm. Khí với vị hợp lại để ăn và uống, sẽ bổ tinh và ích khí [55].

Vậy năm vị tân, toan, cam, khổ, hàm... đó đều có sự lợi ích, hoặc tán, hoặc thâu, hoặc cấp, hoặc kiên, hoặc nhuyễn v.v.. [56]. Bốn mùa năm tàng mắc bệnh, đều theo sự cân dùng thích nghi của năm tàng [57].

藏气法时论篇第二十二

黄帝问曰:合人形以法四时五行而治,何如而从,何如而逆,得失之意,愿闻其事。岐伯对曰:五行者,金木水火土也,更贵更贱,以知死生,以决成败,而定五藏之气,间甚之时,死生之期也。

帝曰:愿卒闻之。岐伯曰:肝主春,足厥阴少阳主治,其日甲乙,肝苦急,急食甘以缓之。心主夏,手少阴太阳主治,其日丙丁,心苦缓,急食酸以收之。脾主长夏,足太阴阳明主治,其日戊己,脾苦湿,急食苦以燥之。肺主秋,手太阴阳明主治,其日庚辛,肺苦气上逆,急食苦以泄之。肾主冬,足少阴太阳主治,其日壬癸,肾苦燥,急食辛以润之,开腠理,致津液,通气也。

病在肝,愈于夏,夏不愈,甚于秋,秋不死,持于冬,起于春,禁当风。肝病者,愈在丙丁,丙丁不愈,加于庚辛,庚辛不死,持于壬癸,起于甲乙。肝病者,平旦慧,下晡甚,夜半静。肝欲散,急食辛以散之,用辛补之,酸写之。

病在心,愈在长夏,长夏不愈,甚于冬,冬不死,持于春,起于夏,禁温食热衣。心病者,愈在戊己,戊己不愈,加于壬癸,壬癸不死,持于甲乙,起于丙丁。心病者,日中慧,夜半甚,平旦静。心欲软,急食咸以软之,用咸补之,甘写之。

病在脾,愈在秋,秋不愈,甚于春,春不死,持于夏,起于长夏,禁温食饱食湿地濡衣。脾病者,愈在庚辛,庚辛不愈,加于甲乙,甲乙不死,持于丙丁,起于戊己。脾病者,日昳慧,日出甚,下晡静。脾欲缓,急食甘以缓之,用苦写之,甘补之。

病在肺,愈在冬,冬不愈,甚于夏,夏不死,持于长夏,起于秋,禁寒饮食寒衣。肺病者,愈在壬癸,壬癸不愈,加于丙丁,丙丁不死,持于戊己,起于庚辛。肺病者,下晡慧,日中甚,夜半静。肺欲收,急食酸以收之,用酸补之,辛写之。

病在肾,愈在春,春不愈,甚于长夏,长夏不死,持于秋,起于冬,禁犯焠(火矣)热食温灸衣。肾病者,愈在甲乙,甲乙不愈,甚于戊己,戊己不死,持于庚辛,起于壬癸。肾病者,夜半慧,四季甚,下晡静。肾欲坚,急食苦以坚之,用苦补之,咸写之。

夫邪气之客于身也,以胜相加,至其所生而愈,至其所不胜而甚,至于所生而持,自得其位而起。必先定五藏之脉,乃可言间甚之时,死生之期也。

肝病者,两胁下痛引少腹,令人善怒,虚则目(目巟)(目巟)无所见,耳无所闻,善恐,如人将捕之,取其经,厥阴与少阳,气逆,则头痛耳聋不聪颊肿。取血者。

心病者,胸中痛,胁支满,胁下痛,膺背肩甲间痛,两臂内痛;虚则胸腹大,胁下与腰相引而痛,取其经,少阴太阳,舌下血者。其变病,刺郄中血者。

脾病者,身重善肌肉痿,足不收行,善瘈,脚下痛;虚则腹满肠鸣,飧泄食不化,取其经,太阴阳明少阴血者。

肺病者,喘咳逆气,肩背痛,汗出,尻阴股膝髀(月耑)(骨行)足皆痛;虚则少气不能报息,耳聋嗌干,取其经,太阴足太阳之外厥阴内血者。

肾病者,腹大胫肿,喘咳身重,寝汗出,憎风;虚则胸中痛,大腹小腹痛,清厥意不乐,取其经,少阴太阳血者。

肝色青,宜食甘,粳米牛肉枣葵皆甘。心色赤,宜食酸,小豆犬肉李韭皆酸。肺色白,宜食苦,麦羊肉杏薤皆苦。脾色黄,宜食咸,大豆豕肉栗藿皆咸。肾色黑,宜食辛,黄黍鸡肉桃葱皆辛。辛散,酸收,甘缓,苦坚,咸软。

毒药攻邪,五谷为养,五果为助,五畜为益,五菜为充,气味合而服之,以补精益气。此五者,有辛酸甘苦咸,各有所利,或散,或收,或缓,或急,或坚,或软,四时五藏,病随五味所宜也。