Thiên ba mươi lăm: NGƯỢC LUẬN

Hoàng Đế hỏi:

“Hài, Ngược” đều sinh ra bởi phong. Lúc phát lúc không, không có kỳ hạn, là v́ sao? (Hài cũng là ngược, nhưng chứng phát về đêm gọi là Hài, phát về ngày gọi là Ngược) [17].

 Kỳ Bá thưa rằng:

Khí ngược mới phát, trước khởi sự từ các chân lông (ghê, rợn) vươn vai và ngáp, rồi mới phát... Rét run lập cập, yêu tích đều đau, sau khi lạnh rét thời trong ngoài đều nóng, đầu nhức như muốn vỡ, khát muốn uống nước lạnh [18].

 V́ Khí ǵ gây nên thế? [19]

Aâm, Dương, trên dưới tranh giành lẫn nhau, hư, thực lần lượt thay đổi, Aâm, Dương lần lượt chuyển đi [20]. Dương dồn vào Aâm, thời Aâm thực mà Dương hư [21]. Dương minh hư thời rét run cằm cập; Cự dương hư thời đầu, cổ yêu, tích đều đau [22]. Tam dương đều hư thời Aâm Khí thắng; Aâm Khí thắng thời xương lạnh mà đau, hàn sinh ra từ bên trong, cho nên trong ngoài đều hàn [23]. Dương thịnh thời ngoại nhiệt, Aâm hư thời nóäi nhiệt [24]. Ngoại nóäi đều nhiệt thời suyễn mà khát, nên muốn uống nước lạnh [25]. Bệnh đó gây nên, đều bởi mùa Hạ bị thương v́ Khí thử, nhiệt Khí chưa nhiều ở bên trong b́ phu, bên ngoài Trường, Vị, và tà Khí luôn luôn kư túc ở nơi Vinh. Nhân đó khiến người dễ ra mồ hôi, tấu lư rỗng mở... Nhân gặp Thu Khí, mồ hôi ra lại gặp gió, hoặc do khi tắm, thủy Khí cũng kư túc ở khoảng b́ phu, cũng ở chen với Vệ Khí [26]. Vệ Khí, ban ngày dẫn hành ở dương phận, đêm dẫn hành ở Aâm phận. Khí đó gặp dương thời tiết ra ngoài, gặp âm thời bách vào trong, trong ngoài cùng bách lẫn nhau, nên hằng ngày bệnh phát [27].

 Hoàng Đế hỏi:

Có chứng, cách ngày mới phát là v́ sao? [28]

 Kỳ Bá thưa rằng:

Khí đó kư túc ở nơi sâu, bên trong bách vào khí âm, dương khí một ḿnh phát ra, âm tà bám ở bên trong. Aâm với dương tranh giành nhau, không thể ra được, nên cách một ngày bệnh mới phát [29].

 Bệnh phát có khi muộn, có khi sớm, khi nào làm nên thế? [30]

 Tà khí kư túc ở Phong phủ, theo thăn thịt mà dẫn xuống. Vệ khí một ngày một đêm đại hội ở Trong phủ. Đến ngày hôm sau, tức là qua một ngày, mới xuống được một đốt (đốt xương sống),  nên bệnh phát muộn. Đó là do tà khí trước kư túc ở Tích bối, nên mới khiến như vậy [31]. Mỗi khi dẫn đến Phong phủ, thời tấu lư mở, tấu lư mở thời tà khí vào, tà khí vào thời bệnh phát. V́ cớ đó, nên có mỗi ngày mỗi lui muộn dần [32]. Do phát ra từ phong phủ, mỗi ngày mỗi xuống thấp một đốt, qua hai mươi mốt ngày, tới Cầu cốt (tức xương khu), hai mươi ngày vào trong xương sống, lẩn vào trong mạch Phục lữ, chân khí dẫn lên, qua chín ngày, lên tới huyệt khuyết bồn, khí đó càng ngày càng cao cho nên bệnh phát càng ngày càng sớm [33].

Hoàng Đế hỏi:

Phu tử nói, vệ khí mỗi khi đi đến Phong phủ, Tấu lư mới mở, mở thời tà khi lọt vào, lọt vào thời phát bệnh. Giờ Vệ khí mỗi ngày đi xuống một đốt, khí của nó phát ra, không đúng Phong phủ. Vậy mà hàng ngày phát lệnh, là v́ sao? [34]

Kỳ Bá thưa rằng:

Đó là do tà khí kư túc ở đầu, cổ, theo thăn thịt mà dẫn xuống, hư thực không giống nhau, tà trúng không nhất định một chỗ, nên không thể đúng với Phong phủ [35]. Tà trúng ở đầu và cổ, khí đến đầu và cổ thời bệnh phát, tà trúng ở lưng, khí đến lưng thời bệnh phát, tà trúng yêu tích, khí đến yêu tích thời bệnh phát, tà trúng ở tay chân, khí đến tay chân thời bệnh phát [36].

 Vệ khí ở vào nơi nào, với tà khí tương hợp thời bệnh phát. Cho nên phong không nhất định lấy đâu làm “phủ”, theo khí phát ở nơi nào, tất mở cả tấu lư...Vậy cái nơi mà tà khí hợp nơi đó tức là phủ [37].

 Hoàng Đế hỏi:

Phong với ngược, tựa như cùng một loài. Vậy mà bệnh phong không thay đổi, đến bệnh ngược, có lúc phát, có lúc không, là v́ sao? [38]

 Kỳ Bá thưa rằng:

Phong khí thường lưu ở một nơi, nên bệnh không thay đổi, ngược khí theo kinh lạc, ch́m mạch vào bên trong, nên khí nào gặp vệ khí mới phát [39].

 Bệnh ngược, trước hàn mà sau nhiệt, là v́ sao? [40]

 Mùa Hạ bị thương v́ đại thử (nắng quá) hăn ra quá nhiều tấu lư khai phát, nhân lại gặp cái khí hàn thủy lạnh lẽo của mùa Hạ, chứa ở bên trong tấu lư b́ phu, tới mùa Thu lại bị thương v́ phong, do đó gây nên bệnh [41].

 Hàn là âm khí, phong là dương khí. Trước bị thương v́ hàn, sau bị thương v́ phong, nên bệnh phát trước hàn mà sau nhiệt, và bệnh phát có từng lúc., gọi là hàn ngược [42].

 Trước nhiệt mà sau hàn là v́ sao? [43]

 Đó là do trước bị thương v́ phong, sau mới bị thương v́ hàn, nên trước nhiệt mà sau hàn. Bệnh đó cũng phát có tứng lúc, gọi là ôn ngược [44].

 Nếu chỉ nhiệt mà không hàn, là âm khí tuyệt trước, dương khí phát ra một ḿnh. Do đó mới có chứng thiểu khí, phiền oan, tay chân nóng mà muốn ọe. Bệnh đó gọi là Đan ngược [45].

Hoàng Đế hỏi:

Kinh nói: “hữu dư thời tả, bất túc thời bổ”, giờ nhiệt là hữu dư, hàn là bất túc. Ngẫm như chứng hàn của bệnh Ngược, nước nóng lửa đốt không thể làm cho ấm, đến khí nhiệt thời dù nước băng cũng không thể làm cho hàn. Nó đều thuộc về cái loại “hữu dư, bất túc”. Gặp trường hợp đó, dù lương công cũng đành chịu bó tay, phải đợi bệnh khí tự suy giảm, rồi mới thích, là v́ cớ sao? xin cho biết rơ[46].

Kỳ Bá thưa rằng:

Kinh nói: Đừng thích lúc nhiệt đương bừng bừng, mạch đương cuồn cuộn, và hăn đương đầm đ́a... “V́ lúc đó, tà khí dương mạnh, chính khí đương nghịch, nên không thể thích [47].  Ngẫm như chứng Ngược khi  mới phát, dương khí dồn vào âm, đương lúc đó âm hư mà dương thịnh, bên ngoài không dương khí, nên rét run trước, Aâm khí đă nghịch đến cực điểm rồi, thời lại Quày ra với Dương. Dương với Aâm lại dồn cả bên ngoài, thời âm hư mà dương thực, cho nên trước nhiệt mà khát [48]. Ngẫm như ngược khí dồn vê dương thời dương thắng, thời nhiệt [49]. Ngược phát sinh do sự bất thường của khí phong hàn, khí nó phát tới cực điểm thời khí kia đến. Lúc bệnh phát như lửa bốc cháy, như mưa sa gió táp không thể ngăn cản. Cho nên kinh nói” Bệnh lúc dương hăng, chính khí đương bị suy tổn, phải đợi lúc tà khi giảm, sẽ thích, mới được an toàn...” tức là nghĩa đó [50].

Ngược lúc chửa phát, âm chửa dồn vào Dương, Dương chửa dồn vào âm, nhân lúc đó, thừa cơ mà làm cho điều ḥa, chân khí được yên, tà khí sẽ hết. Cho nên không trị giữa lúc bệnh đă phát, v́ pḥng nghịch khí vậy [51].

Hoàng Đế hỏi:

Dùng phép “Công” thế nào? [52]

Kỳ Bá thưa rằng:

Chứng Ngược lúc sắp phát, âm dương lúc sắp di dịch, tất từ  “từ mạt” trước. Dương đă thương, âm sẽ theo, nên trước khi đó, buộc chặt nơi đó cho tà khí không dẫn vào, âm khí không thể ra xét rơ các Tôn lạc thấy nó có vẻ “thinh kiên”, thời thích ngay, đó là làm cho nó không kịp dồn vào nhau [53].

Hoàng Đế hỏi:

Lúc Ngược chửa phát, mạch ứng thế nào? [54]

Kỳ Bá thưa rằng:

Ngược khí tất có lúc thịnh, lúc hư... Bệnh tại dương, thời nhiệt mà mạch táo, bệnh tại âm, thời hàn mà mạch tĩnh. Đến thời kỳ cùng cực thời âm dương đều suy. Lúc vệ khí rời xa thời bệnh được bớt, vệ khí họp lại thời bệnh lại phát [55].

Hoàng Đế hỏi:

Có khi cách hai ngày hoặc ba ngày bệnh mới phát. Lúc bệnh phát, có người khát, có người không khát, là v́ sao? [56]

 Kỳ Bá thưa rằng:

Cách ngày bệnh phát là do Tà khí với Vệ khí kư túc ở sáu phủ, có lúc tương thất, không được tương đắc... Cho nên khỏi vài ngày rồi mớt phát [57].

 Bệnh Ngược, do Aâm dương thay đổi về sự “thắng” hoặc thắng nhiều hoặc thắng ít, nên mới có khát với không khát, khác nhau [58].

 Hoàng Đế hỏi:

Ở luận nói: “mùa Hạ thương v́ thử, thời mùa thu tất phát bệnh Ngược”… Giờ xem như chứng ngược, lại không đúng như thế, là v́ sao? [59]

 Kỳ Bá thưa rằng:

Đó là theo về bốn mùa. Đến các chứng trạng khác, lại là trái với bốn mùa. Nếu phát về mùa Thu thời rét nhiều, phát về mùa Đông thời rét ít, phát về mùa Xuân thời ố phong, phát về mùa Hạ thời nhiều hăn [60].

 Hoàng Đế hỏi:

Oân ngược với Hàn ngược, tà khi đều có nơi kư túc, vậy kư túc ở Tàng nào? [61]

Kỳ Bá thưa rằng:

Oân ngược, gây nên bởi mùa Đông trúng phải phong hàn khí tiền tàng ở trong cốt tủy. Đến mùa Xuân thời Dương khí phát ra mạnh, tà khí không thể tự tiết ra, nhân gặp đại thử, năo tủy hun nóng, cơ nhục tiêu ṃn, tấu lư phát tiết, hoặc v́ sự nhọc mệt, tà khí theo với hăn cùng tiết ra... Đó là bệnh khí tiềm tàng ở Thận... Rồi do từ trong mà tiết ra ngoài [63]. Như thế thời âm hư mà dương thịnh, dương thịnh thời sẽ phát nhiệt [64]. Đến lúc khí đă suy thời lại quay trở vào trong, do đó dương sẽ lại hư, dương hư thời lại hàn... Cho nên trước nhiệt mà sau Hàn, gọi là Oân ngược [65].

 Hoàng Đế hỏi:

Đan ngược như thế nào? [65]

 Kỳ Bá thưa rằng:

Về Đan ngược, do Phế vốn có nhiệt, khí thịnh ở ḿnh, quyết nghịch xung lên, Trung khí thực mà không tiết ra ngoài, v́ có sự nhọc mệt, tấu lư mở ra, phong hàn kư túc ở trong b́ phù, và khoảng phận nhục, thừa cơ phát ra, lúc phát ra thời dương khí thịnh. Dương khi thịnh mà không suy thời sẽ thành bệnh. Khí đó không trở vào với âm, cho nên nhiệt mà không hàn. Nhiệt khí đó, bên trong thời tàng ở Tâm, bên ngoài thời lư túc ở khoảng phận nhục, khiến bệnh nhân cơ nhục tiêu ṃn, nên gọi là Đan ngược [66].

疟论篇第三十五

黄帝问曰:夫痎疟皆生于风,其蓄作有时者何也?岐伯对曰:疟之始发也,先起于毫毛,伸欠乃作,寒慄鼓颔,腰脊俱痛,寒去则内外皆热,头痛如破,渴欲冷饮。

帝曰:何气使然?愿闻其道。岐伯曰:阴阳上下交争,虚实更作,阴阳相移也。阳并于阴,则阴实而阳虚,阳明虚,则寒慄鼓颔也;巨阳虚,则腰背头项痛;三阳俱虚,则阴气胜,阴气胜则骨寒而痛;寒生于内,故中外皆寒;阳盛则外热,阴虚则内热,外内皆热则喘而渴,故欲冷饮也。

此皆得之夏伤于暑,热气盛,藏于皮肤之内,肠胃之外,此荣气之所舍也。此令人汗空疏,腠理开,因得秋气,汗出遇风,及得之以浴,水气舍于皮肤之内,与卫气并居。卫气者,昼日行于阳,夜行于阴,此气得阳而外出,得阴而内搏,内外相薄,是以日作。

帝曰:其间日而作者何也?岐伯曰:其气之舍深,内薄于阴,阳气独发,阴邪内著,阴与阳争不得出,是以间日而作也。

帝曰:善。其作日晏与其日早者,何气使然?岐伯曰:邪气客于风府,循膂而下,卫气一日一夜大会于风府,其明日日下一节,故其作也晏,此先客于脊背也。每至于风府则腠理开,腠理开则邪气入,邪气入则病作,以此日作稍益晏也。其出于风府,日下一节,二十五日下至骶骨,二十六日入于脊内,注于伏膂之脉;其气上行,九日出于缺盆之中,其气日高,故作日益早也。其间日发者,由邪气内薄于五藏,横连募原也。其道远,其气深,其行迟,不能与卫气俱行,不得皆出,故间日乃作也。

帝曰:夫子言卫气每至于风府,腠理乃发,发则邪气入,入则病作。今卫气日下一节,其气之发也,不当风府,其日作者奈何?岐伯曰:此邪气客于头项循膂而下者也,故虚实不同,邪中异所,则不得当其风府也。故邪中于头项者,气至头项而病;中于背者,气至背而病;中于腰脊者,气至腰脊而病;中于手足者,气至手足而病。卫气之所在,与邪气相合,则病作。故风无常府,卫气之所发,必开其腠理,邪气之所合,则其府也。

帝曰:善。夫风之与疟也,相似同类,而风独常在,疟得有时而休者何也?岐伯曰:风气留其处,故常在,疟气随经络沉以内薄,故卫气应乃作。

帝曰:疟先寒而后热者,何也?岐伯曰:夏伤于大暑,其汗大出,腠理开发,因遇夏气凄沧之水寒,藏于腠理皮肤之中,秋伤于风,则病成矣,夫寒者,阴气也,风者,阳气也,先伤于寒而后伤于风,故先寒而后热也,病以时作,名曰寒疟。

帝曰:先热而后寒者,何也?岐伯曰:此先伤于风而后伤于寒,故先热而后寒也,亦以时作,名曰温疟。

其但热而不寒者,阴气先绝,阳气独发,则少气烦冤,手足热而欲呕,名曰瘅疟。

帝曰:夫经言有余者写之,不足者补之。今热为有余,寒为不足。夫疟者之寒,汤火不能温也,及其热,冰水不能寒也,此皆有余不足之类。当此之时,良工不能止,必须其自衰,乃刺之,其故何也?愿闻其说。

岐伯曰:经言无刺(火高)(火高)之热,无刺浑浑之脉,无刺漉漉之汗,故为其病逆,未可治也。夫疟之始发也,阳气并于阴,当是之时,阳虚而阴盛,外无气,故先寒慄也。阴气逆极,则复出之阳,阳与阴复并于外,则阴虚而阳实,故先热而渴。夫疟气者,并于阳则阳胜,并于阴则阴胜,阴胜则寒,阳胜则热。疟者,风寒之气不常也,病极则复,至病之发也,如火之热,如风雨不可当也。故经言曰:方其盛时必毁,因其衰也,事必大昌,此之谓也。夫疟之未发也,阴未并阳,阳未并阴,因而调之,真气得安,邪气乃亡,故工不能治其已发,为其气逆也。

帝曰:善。攻之奈何?早晏何如?岐伯曰:疟之且发也,阴阳之且移也,必从四末始也。阳已伤,阴从之,故先其时坚束其处,令邪气不得入,阴气不得出,审候见之,在孙络盛坚而血者皆取之,此真往而未得并者也。

帝曰:疟不发,其应何如?岐伯曰:疟气者,必更盛更虚,当气之所在也,病在阳,则热而脉躁;在阴,则寒而脉静;极则阴阳俱衰,卫气相离,故病得休;卫气集,则复病也。

帝曰:时有间二日或至数日发,或渴或不渴,其故何也?岐伯曰:其间日者,邪气与卫气客于六府,而有时相失,不能相得,故休数日乃作也。疟者,阴阳更胜也,或甚或不甚,故或渴或不渴。

帝曰:论言夏伤于暑,秋必病疟。今疟不必应者,何也?岐伯曰:此应四时者也。其病异形者,反四时也。其以秋病者寒甚,以冬病者寒不甚,以春病者恶风,以夏病者多汗。

帝曰:夫病温疟与寒疟而皆安舍,舍于何藏?岐伯曰:温疟者,得之冬中于风,寒气藏于骨髓之中,至春则阳气大发,邪气不能自出,因遇大暑,脑髓烁,肌肉消,腠理发泄,或有所用力,邪气与汗皆出,此病藏于肾,其气先从内出之于外也。如是者,阴虚而阳盛,阳盛则热矣,衰则气复反入,入则阳虚,阳虚则寒矣,故先热而后寒,名曰温疟。

帝曰:瘅疟何如?岐伯曰:瘅疟者,肺素有热。气盛于身,厥逆上冲,中气实而不外泄,因有所用力,腠理开,风寒舍于皮肤之内、分肉之间而发,发则阳气盛,阳气盛而不衰则病矣。其气不及于阴,故但热而不寒,气内藏于心,而外舍于分肉之间,令人消烁脱肉,故命曰瘅疟。帝曰:善。