Thiên năm mươi tư: CHÂM GIẢI

 Hoàng Đế hỏi:

Xin cho biết phép dùng Cửu châm (chín thứ châm) và thế nào là hư thực? [1]

 Kỳ Bá thưa rằng:

“Khí hư th́ bổ cho thực”, tức là đợi cho khi nào khí đến dưới châm đă nóng mới thôi, v́ khí thực thời nhiệt. “Khí măn thời làm cho tiết”, tức là đợi cho khi nào khí đến dươi châm lạnh mới thôi. V́ khí hư thời hàn. “Uất tích trời trừ đi” tức là dùng châm cho tiết bỏ ác huyết [2].

 “Tà thắng thời làm cho nó hư đi”, vậy khí rút châm ra đừng bỏ vết châm lại để cho tà khí cứ theo đó mà tiết ra [3].

 Như nói: “thong thả mà nhanh thời sẽ thực”, tức là lúc rút châm thời thong thả, nhưng sau khi châm rút ra hết rồi, kịp vít ngay vết châm lại. Như nói: “nhanh mà thong thả thời sẽ hư”, tức là rút châm ra nhanh mà thong thả mới lấy tay vít chỗ châm lại [4].

 Nói “thực với hư” tức là nhận xem khi đến ở dưới châm lạnh hay ấm thời biết là khí nhiều hay ít [5].

Khí ở con người hư hay thực, như có như không, phải yên tĩnh để nhật xét, nếu vội vàng không thể sao biết được [6].

 Bệnh có gốc ngọn, trị bệnh cũng phải có gốc ngọn. Có phân biệt được gốc ngọn, mới mong trị được bệnh [7].

 Hư thời làm cho thực, thực thời làm cho hư, về phép bổ tả, phải giữ cho đúng [8].

 Cái cốt yếu của sự hư thực, đối với phép dùng cửa châm, rất là tinh vi huyền ảo, nhưng cũng theo cái lẽ đương nhiên thôi [9].

 Trong khí hoặc bổ hoặc tả, thời sự khai hạp của khí cũng phản ứng theo (tức như trên đă nói) [10].

 Phàm chín thứ châm, danh và h́nh đều không giống nhau, có thể mới đầy đủ được phương pháp bổ và tả [11].

 Thích vào thực, muốn hư, hăy lưu châm, chờ âm khí đến dưới châm nhiều rồi, sẽ rút châm [12].

 Thích vào hư, muốn cho thực, chờ dương khí đến dưới châm nhiều rồi, sẽ rút châm [13].

 Như nói: “kinh khí đă đến, cần giữ đừng lỡ...” tức là đừng để cho khí lại thay đổi trái khác, mới mong khỏi bệnh [14].

 Như nói: “Sâu nóâng ở chí...” tức là đă biết rơ bệnh ở trong hay ngoài, để dùng châm hoặc sâu hoặc nóng cho đúng. Như nói: “xa gần như một”, tức là lúc thích sâu hay nóâng phải có nhất định [15].

 Như nói: “Tay như nắm con hổ, tức là nói dùng châm phải vững vàng, không nên hấp tấp) [16].

 Như nói: “Thần không thể nào mọi vật...” tức là bảo người dùng châm phải yên tĩnh để xem xét bệnh nhân, không nên để tâm vào việc khác [17].

Vậy lúc cầm châm để châm cho bệnh nhân, phải đoan trang yên tĩnh, dùng mắt của ḿnh trong vào mắt của bệnh nhân, khiến bệnh nhân chú ư vào ḿnh, nhờ ở đó mà khí lưu hành được dễ dăi [18].

B́ (da) của người, ứng với trời. Nhục của người ứng với đất, mạch của người ứng với người. Cân của người ứng với th́ (mùa) tiếng của người ứng với âm, dương của người hợp với khí và ứng với luật, răng và mặt, mắt của người ứng với tinh (sao), khí ra vào của người ứng với phong (gió), Chín khiếu và ba trăm sáu mươi nhăm lạc, ưng với Dă (khu vực) [19].

Cho nên châm số 1 để châm b́, châm số 2 để châm nhục, châm số 3 để châm mạch, châm số 4 để châm cân, châm số 5 để châm cốt, châm số 6 để điều âm dương , châm số 7 để ích tinh, châm số 8 để trừ phong, châm số 9 để thông chín khiếu, và trừ 365 khí ở các tiết. V́ vậy, nên nói các châm đó đều có “sở chủ” [20].

 Tâm, Ư của con người ứng với tám gió (gió của 8 phương) khí của con người ứng với trời, tóc, răng, tai, mắt và ngũ thanh của con người ứng với 5 âm, 6 luật, âm, dương, mạch, và huyết khí của con người, ứng với đất, can và mục của con người ứng với số cửu (tức chín). [21]

Can khai khiếu lên mắt, nên hợp gọi là “can mục”. Can thuộc mộc, mộc sinh ra bởi số 3. Ba nhân với ba tức là số chín) [22].

针解篇第五十四

黄帝问曰:愿闻九针之解,虚实之道。岐伯对曰:刺虚则实之者,针下热也,气实乃热也。满而泄之者,针下寒也,气虚乃寒也。菀陈则除之者,出恶血也。邪胜则虚之者,出针勿按;徐而疾则实者,徐出针而疾按之;疾而徐则虚者,疾出针而徐按之;言实与虚者,寒温气多少也。若无若有者,疾不可知也。察后与先者,知病先后也。为虚与实者,工勿失其法。若得若失者,离其法也。虚实之要,九针最妙者,为其各有所宜也。补写之时者,与气开阖相合也。九针之名,各不同形者,针穷其所当补写也。

刺实须其虚者,留针阴气隆至,乃去针也;刺虚须其实者,阳气隆至,针下热乃去针也。经气已至,慎守勿失者,勿变更也。深浅在志者,知病之内外也;近远如一者,深浅其候等也。如临深渊者,不敢堕也。手如握虎者,欲其壮也。神无营于众物者,静志观病人,无左右视也;义无邪下者,欲端以正也;必正其神者,欲瞻病人目制其神,令气易行也。所谓三里者,下膝三寸也;所谓跗之者,举膝分易见也;巨虚者,蹻足(骨行)独陷者;下廉者,陷下者也。

帝曰:余闻九针,上应天地四时阴阳,愿闻其方,令可传于后世以为常也。岐伯曰:夫一天、二地、三人、四时、五音、六律、七星、八风、九野,身形亦应之,针各有所宜,故曰九针。人皮应天,人肉应地,人脉应人,人筋应时,人声应音,人阴阳合气应律,人齿面目应星,人出入气应风,人九窍三百六十五络应野,故一针皮,二针肉,三针脉,四针筋,五针骨,六针调阴阳,七针益精,八针除风,九针通九窍,除三百六十五节气,此之谓各有所主也。人心意应八风,人气应天,人发齿耳目五声应五音六律,人阴阳脉血气应地,人肝目应之九。九窍三百六十五。人一以观动静天二以候五色七星应之,以候发毋泽五音一,以候宫商角徵羽六律有余,不足应之二地一,以候高下有余九野一节俞应之,以候闭节,三人变一分人,候齿泄多血少十分角之变,五分以候缓急,六分不足三分寒关节第九,分四时人寒温燥湿四时,一应之以候相反,一四方各作解。