Thiên sáu mươi ba: MẬU THÍCH LUẬN

Hoàng Đế hỏi:

Ta nghe phép Mậu thích, chưa hiểu ra sao, xin cho biết rơ thế nào là Mậu thích ? [1]

Kỳ Bá thưa rằng:

Tà khí “khách” ở thân h́nh con người, trước tụ ở b́ mao, lưu ở đó không tan đi, lại vào tụ ở Tôn mạch lưu ở đó không tan đi, lại vào tụ ở Lạc mạch ở đó không tan đi, lại vào tụ ở kinh mạch, khi đó bên trong sẽ liền với năm Tàng, bố tán ra Trường Vị, âm dương đều thịnh, năm Tàng sẽ thương. Đó là tà khí bắt đầu phạm ở b́ mao, rồi cuối cùng vào tới năm Tàng. Như thế thời điều trị ở Kinh (1) [2].

Giờ tà khí khách ở b́ mao, vào tụ ở Tôn lạc lưu ở đó mà không tan đi, vít lấp không thông, không được truyền vào Kinh, mà trôi ràn vào Lạc, v́ vậy mà gây nên  bệnh [3].

Tà khí, “khách” ở đại lạc, nếu ở bên tả, sẽ rót sang bên Hữu, ở bên hữu sẽ rót sang bên tả. Trên dưới, tả hữu, cùng giao thông với kinh tương ứng để bố tán ra tứ chi. Cái khí đó không ở chuyên nơi nào, mà cũng không vào kinh du, nên gọi là Mậu thích [4].

Hoàng Đế hỏi:

Xin cho biết, v́ cớ sao phép mậu thích lại bệnh ở tả thời thích hữu, bệnh ở hữu thời thích tả... Cùng với phép cự thích, khác nhau thế nào? [5]

Kỳ Bá :

Tà khách ở kinh, bên tả thịnh thời bên hữu mắc bệnh, bên hữu thịnh thời bên tả mắc bệnh. Nhưng cũng có khí di dịch. Bên tả đau chưa khỏi mà mạch bên hữu đă mắc bệnh, như thế, phải dùng phép Cự thích; nhưng phải thích cho trúng Kinh mạch, chứ không phải Lạc mạch. Cho nên bệnh ở Lạc, cái sự đau cùng với Kinh mạch khác nhau, nên gọi là Mậu thích (1) [6].

Hoàng Đế hỏi:

Về phép Mậu thích, nên như thế nào [7]

Kỳ Bá:

Tà “khách” ở lạc Túc Thiếu âm, khiến người bỗng dưng Tâm thống, bạo trướng, Hung và Hiếp nghẽn đầy, xét ra không có “tích”, thích ở trước Nhiên cốt cho ra huyết; trong ṿng như ăn xong bữa cơm, sẽ khỏi. Nếu không khỏi, bệnh bên tả, thích bên hữu; bệnh bên hữu, thích bên tả. Bệnh mới phát sinh, năm ngày sẽ khỏi [8] .

9) Tà khách ở Lạc Thủ Thiếu dương khiến người Hầu tư, thiệt quyển, miệng ráo, tâm phiền, ngoài cánh tay đau; tay không thể với lên đầu. Thích ở trên móng ngón tay giữa và ngón vô danh, cách chỗ móng bằng chiếc là Hẹ (cửu diệp) đều một “Vĩ” (vết, hoặc nóát). Hạng tráng niên, khỏi ngay; người già một lát sẽ khỏi. Bệnh bên tả, thích bên hữu; bệnh bên hữu, thích bên tả. Bệnh mới phát, vài ngày khỏi [9].

10) Tà khách ở Lạc Túc quyết âm, khiến người bỗng dưng Sán thống, bạo thống, thích ở chỗ thịt giáp móng ngón chân cái, mỗi bên một “Vĩ”. Bệnh nhân là con trai, khỏi ngay, là con gái một lát khỏi. Bệnh bên tả, thích bên hữu, bệnh bên hữu, thích bên tả [10].

Tà khách ở Lạc Túc Thái dương, khiến người đầu và cổ đều đau. Thích ở chỗ thịt giáp móng ngón chân út, mỗi bên một “Vĩ”. Bệnh bên tả, thích bên hữu, bệnh bên hữu thích bên tả. Như xong một bữa ăn sẽ khỏi [11].

Tà khách ở Lạc Thủ Dương minh, khiến người khí măn, trong Hung suyễn và thở gấp, Hiếp, nghẽn, Hung nhiệt, thích ở Quang Xung, Thiếu Thương ngón tay giữa và ngón vô danh, cách chỗ móng bằng một lá hẹ nằm ngang, mỗi gón một “Vĩ:”. Bệnh bên tả, thích bên hữu, bệnh bên hữu, thích bên tả. Như xong bữu ăn sẽ khỏi [12].

Tà khách ở khoảng tư trưởng (cánh tay, bàn tay), không thể co lại được, thích ở sau Khỏa (sau khủyu tay), trước lấy tay ấn vào, thấy đau bây giờ mới thích. Lấy nguyệt (mặt trăng) mọc lặn làm số hạn. Trăng mọc ngày thứ nhất, thích một “Vĩ”, ngày thứ hai (2 vĩ), ngày 15, 15 (vĩ), ngày 16, 14 (vơ) (rút đi dần) [13].

Tà khách ở mạch Túc Dương kiểu, khiến người mắt đau, bắt đầu từ trong đầu mắt trước, thích ở dưới. Ngoại khỏa nửa tấc đều 2 “vĩ”. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả. Một lát lâu như đi được mười dặm, sẽ khỏi [14].

Nếu bị ngă đau, ác huyết lưu ở bên trong, trong bụng đầy, không đại tiểu được, trước nên cho uống (lợi dược) (thứ thuốc uống cho lợi đại tiểu). Bệnh đó, do bên trên thời thương đến mạch của Quyết âm, bên dưới thời thương đến Lạc của Thiếu dương, thích ở dưới tức Nóäi khỏa, phía trước Nhiên cốc, để cho huyết ở mạch tiết ra. Lại thích ở Động mạch trên mu bàn chân, vẫn không khỏi, lại thích ở trên Tam mao, đều một “vĩ” thấy nhớm huyết, khỏi ngay. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả. Nếu bệnh nhân hay bị, kinh, không vui, cũng thích như phương pháp trên [15].

Tà khách ở Lạc của Thủ Dương minh, khiến người tai điếc, thường không nghe tiếng ǵ. Thích ở ngón tay cái, ngón tay trở, chỗ cách móng tay bằng chiếc lá hẹ  nằm ngang, đều một “vĩ”. Có thể nghe tiếng ngay. Nếu không khỏi, thích ở chỗ thịt và móng tay giáp nhau, có thể nghe được ngay. Nếu bệnh nhân có lúc vẫn nghe được, thời không thể thích. Nếu trong tai ù ù như gió, cũng thích bấy nhiêu “vĩ”. Bệnh bên tả thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả [16].

Phàm chứng Tư, lúc ở chỗ này, lúc ở chỗ nọ, đi lại không có nơi nhất định. Nhận ở ngoài thịt, chỗ nào đau thời thích, lấy mặt trăng mọc làm hạn. Khi dùng châm, theo khí thịnh suy để tính số “vĩ”. Nếu châm quá số ngày, sẽ bị thoái khí, nếu không kịp số ngày, tà khí sẽ không tả ra được. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả, bệnh khỏi, thôi không thích nữa, vẫn chưa khỏi, lại thích đúng như phép theo mặt trăng khi mọc, ngày thứ một, một “vĩ” ngày thứ hai hai “vĩ”... Rồi nhiều dần lên đến ngày thứ mười lăm thời mười lăm “vĩ:” qua ngày mười sáu thời mười bốn “vĩ”, rồi lại rút bớt dần [17].

Tà khách ở kinh mạch Túc Dương minh, khiến người Cừu nục (máu chảy ra đằng mũi) Răng hàm trên lạnh, thích ở chỗ thịt giáp liền với móng hai ngón chân giữa và ngón vô danh, đều  một “vĩ”. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả [18].

Tà khách ở Lạc của Túc thiếu dương, khiến người Hiếp (lườn) đau không thể thở, khái mà hăn ra, thích ở chỗ thịt giáp liền với hai ngón chân vô danh và ngón chân út. Đều một “vĩ”. Về chứng “không thể thở”, sẽ khỏi ngay, chứng hăn ra cũng chỉ ngay. C̣n chứng khái, phải cho mặc áo ấm, và cho điều dưỡng thêm bằng thức ăn có tính ôn, một ngày sẽ khỏi. Bệnh bên tả, thích ở hũu, bệnh bên hữu, thích ở tả. Bệnh khỏi ngay. Nếu vẫn không khỏi, lại thích đúng như phép trước [19].

Tà khách ở Lạc của Túc thiếu âm, khiến người đau ở cuống họng, không thể nuốt thức ăn, không v́ cớ ǵ mà cũng hay nóä, khí dẫn ngược lên Bí môn, thích mạch Trung ương ở dưới chân Dũng tuyền 3 “Vĩ” tất cả sáu lần thích, khỏi ngay. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả. Cuống họng sưng, không nuốt được nước miếng, cũng có lúc không nhổ ra được, thích ở trước Nhiên cốt, cho xuất huyết, khỏi ngay. Bệnh ở tả, thích bên hữu, bệnh ở hữu, thích bên tả [20].

Tà khách ở Lạc của Túc Thái âm, khiến người yêu thống, rút xuống, Thiếu phúc, đau ra cả sườn, không thể nằm ngửa, thích giải huyết khoảng yêu và cầu cốt, và trên hai “thăn” (thịt giáp xương sống) đó là yêu du. Lấy mặt trăng mọc lặn làm số “vĩ” rút chậm khỏi ngay. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả [21].

Tà khách ở Lạc của Túc Thái dương, khiến người co rút, lưng g̣ đau rút xuống hiếp. Thích từ cổ trước, đếm từng đốt xương sống, vừa đếm nhanh, vừa ấn tay mạnh, gặp chơ nào đau, thích ngay, ba “vĩ” khỏi ngay [22].

Tà khách ở Lạc của Túc Thiếu dương, khiến người đau nhức ở Khu trung (tức hai huyệt Hoàn khiếu ở đùi), không thể cất đùi lên được. Dùng “Hào” (tên một thứ châm) để châm. Nếu bệnh hàn, thời để châm lâu. Theo mặt trăng mọc lặn làm số “vĩ”, sẽ khỏi ngay [23].

Điều trị các Kính biệt, nếu chỗ tà khí đi qua mà không bệnh, thời dùng phép mậu thích (1) [24].

Tai điếc, thích ở Thủ Dương minh, không khỏi, nên thích ở Thông mạch. mạch này ở phía trước tai. Thính hội [25].

Răng đau nhức, thích ở Thủ Dương minh, không khỏi thích vào (cái mạch dẫn vào trong răng), ở khe răng, sẽ khỏi ngay [26].

Tà khách ở khoảng 5 Tàng, khi phát bệnh, đau rút ở trong mạch, lúc đau, lúc đỡ, nhận kỹ bệnh, rồi dùng phép Mậu thích. Thông nhị tĩnh huyệt. Trông kỹ và thích ở Mạch tại các đầu móng chân và móng tay, cho ra huyết. Cách ngày một lần thích. Thích một lần không khỏi thích năm lần [27].

Cái tà của Thủ Dương minh do sự “mậu truyền” (tức dẫn nhầm) mà dẫn lên răng (thuộc Túc Dương minh); răng và môi lạnh và đau. Trên mạch ở trên mu tay có huyết sắc hiện lên, thời thích bỏ đi, lại thích dưới móng ngón tay giữa thuộc về mạch Thương dương của Túc dương minh, đều một “vĩ”, khỏi ngay. Bệnh nhân tả thích ở bên hữu, bệnh bên hữu, thích ở bên tả [28].

Tà khách ở lại cả Thủ, Túc Thái âm Thiếu âm và Túc Dương minh. Năm lạc đó, đều hội họp ở trong tai, trên chằng lên “tả giác”. V́ tà khách ở Lạc nên 5 lạc  đều kiệt, khiến cách mạch ở thân thể đều động, người đờ ra như “thây” không biết ǵ...Hoặc gọi là Thi quyết. Thích ở cạnh bên trong ngón chân cái, phía trên móng, Aàn bạch cách móng vằng cái lá hẹ nằm ngang, rồi thích ở Túc tâm, thích phía trên ngón chân giữa, đều một “Vĩ”, sau lại thích cạnh bên Lệ đài trong ngón tay cái, cách móng tay bằng một cái lá hẹ nằm ngang,  sau lại thích đầu Nhuệ cốt thuộc Thủ Tâm chủ Thiếu âm, đều một “Vĩ”, khỏi ngay, nếu không khỏi, gọt bỏ chỗ tóc ở tả giác, vuông bằng một tấc, đốt lấy than, ḥa vào một chén rượu ngon, cho uống. Người không biết uống cũng cố uống, khỏi ngay [29].

30) Phàm cái số thích, trước phải nhận ở Kinh mạch, án tay ḍ xem, xét rơ hư thực để điều trị. Nếu khí huyết không điều thích vào kinh mạch, nếu có nơi đau mà kinh mạch không mắc bệnh, dùng phép Mậu thích. Lại trong ở b́ bộ của huyết lạc hiện lên, đều phải thích cả. Đó là phương pháp Mậu tích [30].

 缪刺论篇第六十三

黄帝问曰:余闻缪刺,未得其意,何谓缪刺?岐伯对曰:夫邪之客于形也,必先舍于皮毛,留而不去,入舍于孙脉,留而不去,入舍于络脉,留而不去,入舍于经脉,内连五藏,散于肠胃,阴阳俱感,五藏乃伤,此邪之从皮毛而入,极于五藏之次也,如此则治其经焉。今邪客于皮毛,入舍于孙络,留而不去,闭塞不通,不得入于经,流溢于大络,而生奇病也。夫邪客大络者,左注右,右注左,上下左右,与经相干,而布于四末,其气无常处,不入于经俞,命曰缪刺。

帝曰:愿闻缪刺,以左取右以右取左,奈何?其与巨刺何以别之?岐伯曰:邪客于经,左盛则右病,右盛则左病,亦有移易者,左痛未已而右脉先病,如此者,必巨刺之,必中其经,非络脉也。故络病者,其痛与经脉缪处,故命曰缪刺。

帝曰:愿闻缪刺奈何?取之何如?岐伯曰:邪客于足少阴之络,令人卒心痛,暴胀,胸胁支满,无积者,刺然骨之前出血,如食顷而已。不已,左取右,右取左。病新发者,取五日,已。

邪客于手少阳之络,令人喉痹舌卷,口干心烦,臂外廉痛,手不及头,刺手中指次指爪甲上,去端如韭叶各一痏,壮者立已,老者有顷已,左取右,右取左,此新病数日已。

邪客于足厥阴之络,令人卒疝暴痛,刺足大指爪甲上,与肉交者各一痏,男子立已,女子有顷已,左取右,右取左。

邪客于足太阳之络,令人头项肩痛,刺足小指爪甲上,与肉交者各一痏,立已,不已,刺外踝下三痏,左取右,右取左,如食顷已。

邪客于手阳明之络,令人气满胸中,喘息而支胠,胸中热,刺手大指、次指爪甲上,去端如韭叶各一痏,左取右,右取左,如食顷已。

邪客于臂掌之间,不可得屈,刺其踝后,先以指按之痛,乃刺之,以月死生为数,月生一日一痏,二日二痏,十五日十五痏,十六日十四痏。

邪客于足阳蹻之脉,令人目痛从内眥始,刺外踝之下半寸所各二痏,左刺右,右刺左,如行十里顷而已。

人有所堕坠,恶血留内,腹中满胀,不得前后,先饮利药,此上伤厥阴之脉,下伤少阴之络,刺足内踝之下,然骨之前,血脉出血,刺足跗上动脉,不已,刺三毛上各一痏,见血立已,左刺右,右刺左。善悲惊不乐,刺如右方。

邪客于手阳明之络,令人耳聋,时不闻音,刺手大指次指爪甲上,去端如韭叶各一痏,立闻,不已,刺中指爪甲上与肉交者,立闻,其不时闻者,不可刺也。耳中生风者,亦刺之如此数,左刺右,右刺左。

凡痹往来行无常处者,在分肉间痛而刺之,以月死生为数,用针者随气盛衰,以为痏数,针过其日数则脱气,不及日数则气不写,左刺右,右刺左,病已,止,不已,复刺之如法,月生一日一痏,二日二痏,渐多之;十五日十五痏,十六日十四,渐少之。

邪客于足阳明之经,令人鼽衄上齿寒,足中指次指爪甲上,与肉交者各一痏,左刺右,右刺左。

邪客于足少阳之络,令人胁痛不得息,咳而汗出,刺足小指次指爪甲上,与肉交者各一痏,不得息立已,汗出立止,咳者温衣饮食,一日已。左刺右,右刺左,病立已,不已,复刺如法。

邪客于足少阴之络,令人嗌痛,不可内食,无故善怒,气上走贲上,刺足下中央之脉各三痏,凡六刺,立已,左刺右,右刺左。嗌中肿,不能内唾,时不能出唾者,刺然骨之前,出血立已,左刺右,右刺左。

邪客于足太阴之络,令人腰痛,引少腹控(月少),不可以仰息,刺腰尻之解,两胂之上,是腰俞,以月死生为痏数,发针立已,左刺右,右刺左。

邪客于足太阳之络,令人拘挛背急,引胁而痛,刺之从项始,数脊椎侠脊,疾按之应手如痛,刺之傍三痏,立已。

邪客于足少阳之络,令人留于枢中痛,髀不可举,刺枢中以毫针,寒则久留针,以月死生为数,立已。

治诸经刺之,所过者不病,则缪刺之。

耳聋,刺手阳明,不已,刺其通脉出耳前者。

齿龋,刺手阳明,不已,刺其脉入齿中,立已。

邪客于五藏之间,其病也,脉引而痛,时来时止,视其病,缪刺之于手足爪甲上,视其脉,出其血,间日一刺,一刺不已,五刺已。

缪传引上齿,齿唇寒痛,视其手背脉血者去之,足阳明中指爪甲上一痏,手大指次指爪甲上各一痏,立已,左取右,右取左。

邪客于手足少阴太阴足阳明之络,此五络,皆会于耳中,上络左角,五络俱竭,令人身脉皆动,而形无知也,其状若尸,或曰尸厥,。刺其足大指内侧爪甲上,去端如韭叶,后刺足心,后刺足中指爪甲上各一痏,后刺手大指内侧,去端如韭叶,后刺手心主,少阴锐骨之端各一痏,立已。不已,以竹管吹其两耳,鬄其左角之发方一寸,燔治,饮以美酒一杯,不能饮者灌之,立已。

凡刺之数,先视其经脉,切而从之,审其虚而调之,不调者经刺之,有痛而经不病者缪刺之,因视其皮部有血络者尽取之,此缪刺之数也。