Thiên sáu mươi chín: KHÍ GIAO BIẾN LUẬN

Hoàng Đế hỏi:

Năm vận thay đổi để chủ về năm, trên ứng với “thiên cơ” (cơ là năm); Hàn thử nóái nhau; chân tà cùng gặp. nóäi ngoại phân ly; sáu kinh thay đổi, năm khi lần lượt, thái quá và bất cập, chuyên thắng và kiêm tinh... Xin cho biết rơ nguyên ủy ra làm sao? (1) [1].

Kỳ Bá thưa rằng:

Cần phải hiểu rơ khí và vị. Vị ở trên trời là thiên văn; vị ở dưới đất là địa lư; suốt với sự biến hóa của nhân khí, là nhân sự (việc của người. Hợp với trên là thiên văn, địa lư, nhân sự). Cho nên thái quá là đến trước thiên thời, bất cập là đến sau thiên thời. Do sự biến hóa đó, mà con người cũng ứng theo (1).

Hoàng Đế hỏi:

Sự hóa của năm vận, thái quá như thế nào? [3]

Kỳ Bá  thưa rằng:

Tuế thuộc Mộc mà thái quá, thời phong khí sẽ tràn lan; do đó, nó sẽ chế thắng thổ khí, người sẽ ứng theo đó mà mắc bệnh ở Tỳ. Xôn tiết, ăn sút, thân thể nặng nề, phiền oan, trường minh, phúc chi măn, ở trên thời ứng với Tuế tinh (1).

Nếu bệnh nặng thời thường thường hay nóä, hoa mắt, chóng mặt, thuộc về chứng trạng ở đầu (1) [5].

Hóa khí không thi hành được chính lệnh, sinh khí một ḿnh phát triển, khiến cho mây khói tung bay, cỏ cây khôn lặng... Cây nên các chứng hiếp thống và thổ nhiều. Nếu mạch ở xung dương mà tuyệt sẽ chết, không thể chữa. Trên ứng với sao Thái bạch (2) [6].

Tuế thuộc Hỏa mà thái quá, thời khí nóng tràn lan, khiến kim phế thụ tà, con người cũng phải ứng theo mà phát bệnh ngược (sốt rét, úi) thiểu khí, khái, suyễn, huyết  giật, huyết tiết, chú bạ, ách táo (cuống họng ráo) tai điếc, trung nhiệt (nóng ở trong bụng); vai và lưng nhiệt; Trên ứng với sao Huỳnh hoặc (1) [7]

Nếu quá lắm thời trong hung đan, hiếp chi măn, và đau, ức vai, cánh tay đều đau, ḿnh nóng, xương đau, rồi biến thành tẩm râm (2) [8]

Cái khí thâu liễm không lưu hành, cái khí sinh trưởng riêng phát triển, mưa nhiều, sương xuống, trên ứng với Thần linh (3).

Nếu thượng lâm Thiếu âm, Thiếu dương, thời lửa bốc nóng suối nước cạn, mọi vật khô khan (1) [10].

Bệnh lại phát ra thiềm vong, cuồng tẩu, suyễn, khái, thở thành tiếng, bách xuống thành huyết tiết, tiết tả không dứt mạch Thái uyên tuyệt, sẽ chết, không thể chữa. Trên ứng với sao Huỳnh hoặc (2) [12].

Tuế thổ thuộc thái quá, thời mưa nhiều, khí ẩm thấp tràn lan. Con người cũng ứng theo, khiến Thận thủy bị tà, gây nên phúc thống, lănh quyết, ư buồn bă không được vui, thân thể nặng nề, phiền oan. Trên ứng với Chấn tinh (1) [12].

Quá lắm thời thành ra cơ nhục nhăo, chân yếu không tự cử động được (nuy); dưới chân đau, ăn uống kém sút, phúc măn, tứ chi ră rời, biến sinh giữa khí đắc vị (2) [13].

Tàng khí bị phục, hóa khí làm chủ, sông nước tràn ngập, đầm khô có cá, mưa gió tơi bời, thối đất nát cỏ, cá tép lên cạn; phúc măn, đường tiết, trường minh (bụng sôi); tả nhiều; nếu Thái khê mạch tuyệt sẽ chết, không thể chữa. Trên ứng với Tuế tinh (3) [14].

Tuế kim thuộc thái quá, táo khí lưu hành, do đó Mộc sẽ thụ tà. Con người cũng ứng theo mà lưỡng hiếp và Thiếu phúc đau, mắt đỏ và đau; tai không nghe tiếng, khí túc sái càng lắm, khiến thân thể nặng nề và phiền oan; Hung đau rút sang lưng, hai hiếp măn và đau rút xuống Thiếu phúc, trên ứng với sao Thái Bạch (1) [15].

Quá lắm thời khái, suyễn và nghịch khí, kiên và bối đau, cầu âm (xương khu), cổ (vế). tất (gối), bễ (đùi) hành (ống chân) đều mắc bệnh, trên ứng với sao Huyền Hoặc (2) [16].

Thâm khí mạnh quá, sinh khí bị nhục, cỏ cây xơ xác vàng rụng; gây thêm bệnh bạo thống ở hai hiếp, không thể trở ḿnh, khái nghịch, quá lắm thời huyết ràn. Thái xung mạch tuyệt, chết, không thể chữa. Trên ứng  với sao Thái Bạch (3) [17].

Tuế thủy thuộc thái quá, thời hàn khí lưu hành, tà sẽ làm hại Tâm hỏa. Con người cũng ứng theo mà mắc bệnh thân nhiệt, phiền tâm, táo và qúi; Aâm quyết cả trên dưới, trung hàn, thiềm vọng, tâm thống. Hàn khí đến sớm, trên ứng với Thần Tinh (1) [18].

Quá lắm thời phúc đại, hĩnh thũng, (xương ống chân sưng)’ suyễn, khái khí nằm hăn ra, ghét gió. Mưa to đến mây mù đen đặc. Trên ứng với Chấn tinh (2) [19].

Thượng lâm Thái dương, mưa đá, thỉnh thoảng tuyết sương giáng xuống, thấp khí làm biến mọi vật, bệnh lại sinh ra phúc măn, trường minh, đường tiết, ăn không tiêu, khát, hay chóng mặt. Thần môn mạch tuyệt, sẽ chết, không thể chữa. Trên ứng với sao Huỳnh Hoặc (3) [20].

Hoàng Đế hỏi:

Về các năm bất cập, thời như thế nào? [21]

Kỳ Bá thưa rằng:

Tuế mộc bất cập thời táo khí sẽ đại hành. Con người cũng ứng theo đó mà mắc bệnh trung thanh (lạnh ở bên trong). Khư hiếp đau, thiếu phúc đau, trường minh, đường tiết, thường có lương vũ. Trên ứng với sao Thái Bạch (1) [22].

Nếu thượng lâm Dương minh, thời sinh khí sẽ mất sự phát triển; trên ứng với Thái Bạch và Chấn Tinh (11) [23].

Nếu “phục” thời nóng bức bội thường, sẽ phát các chứng hàn, nhiệt, sương, dương, phí, chẩn, ung, ṭa v.v... Trên ứng với sao Huỳnh Hoặc (3) [24].

Bạch lộ giáng sớm, khí thâu sái lưu hành; Tỳ thổ thụ tà “xích khí” hóa sau, Tâm khí văn trị, trên thắng Phế kim “bạch khí” sẽ bị khuất. Do đó phát chứng “cừu” và khái (4).

Tuế hỏa bất chập, hàn khí đại hành, cái chính lệnh sinh trưởng không thể thi dụng, Con người cũng ứng theo đó mà mắc bệnh hung trung thống, hiếp chi măn, lưỡng hiếp thống; Ưng, bối, kiên, bễ, hai cánh tay đau, uất mạo, mông muội, tâm thông, bạo ấm (bỗng dưng miệng không nói được); phúc đại; dưới hiếp và yêu, bối cùng rút mà đau, quá lắm thời co vào không duỗi ra được. Trên ứng với huỳnh hoặc (1) [26].

“Phúc” thời khí bốc mù mịt, thường có mưa to, hắc khí thụt xuống (hắc khi là thủy), người mắc bệnh đại tiện phân sống, phúc măn, ăn uống không được, hàn trung (lạnh bên trong), sôi bụng; tả mạnh, bụng đau, bạo loạn (co gân) và nuy tư, chân đi không vững. Trên ứng với Chấn Tinh và Thần Tinh (2) [27].

Tuế thổ bất cập phong khí sẽ đại hành. Hóa khí không thi hành được chính lệch... Con người cũng ứng theo mà sinh chứng xôn tiết, hoặc loạn, cân cốt dao động (gân xương lay động, co giật), cơ nhục, nhuận (cùng ở trong thịt) toan (nhức âm ỷ), hay nóä, Tàng khí làm việc, người mắc chứng hàn trung trên ứng với Tuế Tinh, Chất Tinh (1) [28].

“Phục” thời cái chính lệnh thâu liễm gắt gao khiến người hung, hiếp bạo thống, rút xuống Thiếu phúc, hay thở dài, khí khách vào Tỳ, ăn uống kém sút mà không biết ngon (2) [29].

“Thượng lâm” quyết âm: Tàng khí không hiệu dụng được, bạch khí do đó không phục, dân được yên toàn (3) [30].

Tuế kim bất cập, viêm hỏa sẽ lưu hành, sinh khí do đó dụng được trưởng khí để chuyên thắng, con người cũng ứng theo đó mà phát bệnh đau ở kiến bối, đầu cứ muốn qụy xuống, hay hắt hơi, đại tiện ra huyết, khí thâu liễm măi về sau mới phát triển. Trên ứng với sao Thái bạch (1) [31].

Nếu “phục” thời mưa lạnh trút xuống, sương tuyết làm hại vật, Aâm quyết và cách dương, Dương lại bốc lên, đầu và năo bộ đau, xuất lên đỉnh đầu )buốt óc), phát nhiệt, lại thêm chứng lở miệng, quá lắm thời Tâm thống (2) [32].

Tuế thủy bất cập, thấp khi sẽ đại hành; trường khí do đó đắc dụng, hóa của thổ lại hóa ra nhanh chóng (1) [33].

Con người cũng ứng theo mà phát  bệnh phúc măn thận trọng, nhu tiết (đi tháo), hàn thương (mụn) chỉ vỡ ra nước trong yêu và cổ (đùi) đều đau, đùi, vế buồn bực, tức nuy, giá lạnh, dưới chân đau, quá lắm thời mu chân sưng lên. Tàng khi không thi hành được chính lệnh, Thận khí không  giữa được quân b́nh, trên ứng với Thần tinh (1) [34].

Thượng lâm Thái âm thời có đại hàn luôn. Người sẽ mắt phải hàn tật, quá lắm thời phúc măn, phù thũng trên ứng với Chất tinh (2) [35].

“Phục” thời gió to kéo đến, cây cối đổ gẫy, sắc mặt thường biến, gân xương đều đau, thịt rùng va co rút, mắt trông tờ mờ, khí dồn lên Cách, Tâm phúc đều đau. Trên ứng với Tuế tinh (3) [36].

Hoàng Đế hỏi:

Xin cho biết sự thắng phục của bốn mùa như thế nào? [37]

Kỳ Bá thưa rằng:

Mộc bất cập: mùa Xuân có cái cảnh ấm áp êm đềm, thời mùa Thu sẽ có cái lệch móc sương mát mẻ. Nếu mùa Xuân gặp cái khí thảm thê, tàn tặc, thời mùa Hạ sẽ có cái cảnh nung nấu oi ả. Tai sảnh sẽ phát từ phương đông, ở Tàng con người sẽ là Can. Nếu bệnh phát ở bên trong sẽ tại khư hiếp, ở bên ngoài sẽ tại quan tiết (1) [38].

Hỏa bất cập; mùa Hạ có cái đức hóa sáng tỏ, rơ ràng, thời mùa Đông sẽ có cái lệch sưng hàn lạnh lẽo; Mùa Hạ nếu lại có cái khí d́u hiu rét mướt, thời không chừng sẽ xảy ra mưa to tầm tă... Tai sảnh sẽ phát từ phương Nam, ở Tàng con người sẽ là Tâm. Bệnh phát, bên trong sẽ ở ưng, hiếp, bên ngoài sẽ ở kinh, lạc (1) [39].

Thổ bất cập, tứ duy (tức thổ) có cái đức hóa mây mái thấm nhuần, thời mùa Xuân sẽ có cái chính lệch gió lay lả lướt, nếu tức duy có sự biến, găy cành, trốc gốc, thời mùa Thu sẽ có sự phục hiu hắt mưa dầm... Tai sảnh xảy ra ở Tứ duy, ở Tàng là Tỳ Bệnh phát, bên trong thời ở Tâm phúc, bên ngoài thời ở Cơ nhục và tứ chi (1) [40].

Kim bất cập, mùa Hạ có cái lệch nắng nóû, mưa nhuần, thời mùa Đông có cái ứng sương sa, gió rét. Nếu mùa Hạ, có sứ biến, tan đá chảy vàng, thời mùa Thu sẽ có sự phục sương băng, mưa đá...Tai sảnh xảy ra ở phương Tây, ở Tông con người là Phế Bệnh phát ở bên trong ưng, hiếp, kiên, bối, ở bên ngoài là b́ mao [41]

Thủy bất cập, tứ duy có cái sự hóa mưa nhuần thấm thía, thời bất thời sẽ có sự ứng gió ḥa nảy nở. Tứ duy có cái sự biến mưa dầm tầm tă, thời bất thời sẽ có sự phục gió băo sương mù... Tai sảnh xảy ra ở phương Bắc, ở Tàng con người là Thận Bệnh phát, ở bên trong yêu, tích cốt, tủy, ở bên ngoài là khê, cốc xuyền (xương óng) tất (xương gối) [42].

Đại phàm, cái chính lệnh của năm vận, cũng như cán cân Quá cao thời hạ thấp bớt xuống, quá thấp thời nâng cho cao lên... Nếu hóa thời ứng, nếu biến thời phục. Đó là cái lư trưởng, sinh thành, hóa, thâu, tàng, và là cái b́nh thường của khí. Nếu trái với lẽ  thường đó, thời cái khí của trời đất và bốn mùa, sẽ bị vít lấp (1) [43].

Cho nên nói: sự động tĩnh của trời đất, thần minh làm cương kỷ, sự văng phục của âm dương, hàn thử làm triệu chứng. Tức là lẽ đó (2) [44].

CHÚ GIẢI

1) Cái chính lệch của năm vận âm dương, cũng như cán cân. Cao mà quá, tất phải có cái sức ǵ để nén bớt xuống, v́ là thái quá, thấp mà quá, tất phải có cái sức ǵ để nâng đỡ lên, v́ là bất cập. Nếu đức hóa, thời bốn mùa sẽ ứng theo, nếu biến dịch, thời tùy thời sẽ có sự báo phục. Đó là cái lư sinh, trưởng, hóa, thâu, tàng, và là thường khi của bốn mùa.

2) Ưùng với khi trời, động mà không ngừng, ứng với khi đất, tĩnh mà giữ vị. Thần minh, tức là chỉ về “thất diệu” (7 sao). Đây tiếp đoạn trên để nói: thịnh, suy, thắng, phục, tức là động tĩnh của trời đất, sinh, trưởng, hóa, thâu, tàng tức là văng phục, của âm dương. Sự động tĩnh không trông thấy, có thần minh làm cương kỷ, thời có thể nhật xét, âm dương không thể lường, nhưng có triệu chứng của hàn thử thời có thể biết. Đó là cái đạo âm dương của trời đất.

CHÚ GIẢI

Hoàng Đế nói rằng:

Phu tử nói về biết của năm khí, và sự ứng của bốn mùa, thật đă rơ ràng. Nhưng mỗi khi khí biến động, phát tác không có thường hội, thốt nhiên mà tai hại đến... Có thể dự kỳ được không: [45]

Kỳ Bá thưa rằng:

Sự biến động của trời đất, vốn không có nhất định, nhưng do đức, hóa, chính lệch. Nên tai biến không giống nhau... Có thể nhật xét được [47].

Vậy là nghĩa sao? [47]

Đông phương sinh ra phong, phong sinh ra Mộc, đức của nó là êm ḥa của nó là sinh tươi, chính của nó là mở mang, lệch của nó là phong, sự biến của nó là gió mạnh, tai hại của nó là rời rụng (v́ ở trên có nói: đức, chính, lệnh, biến, tai... Nên ở mùa nào cũng giải đủ sáu điều kiện ấy. Đó cũng là một thể tài của văn cổ) [48]

Nam phương sinh nhiệt; nhiệt sinh ra hỏa, đức của nó là sáng tỏ, hóa của nó là rậm tốt; (mùa Hạ cây cỏ rậm tốt); chính của nó là minh diệu (cũng như sáng tỏ, đều là cái tính chất của hỏa); Lệnh của nó là nhiệt, sự biến của nó là tiêu thước, tai hại của nó là đốt cháy) [49].

Trung ương sinh ra thấp; Thấp sinh ra thổ, đức của nó là ẩm ướt, hóa của nó là đầy đủ; chính của nó là an tĩnh, lệnh của nó là nhiệt, sự biến của nó là sậu chú (mưa to như chút nước), tai hại của nó là lâm hội (mưa dầm nát đất, thối cỏ) [50]

Tây phương sinh táo; Táo sinh ra Kim, đức của nó là thanh khiết (trong trẻo, sách sẽ); hóa của nó là thâu liễm (hanh hái thâu liễm) chính của nó là kính thiết (cứng cỏi); lệnh của nó là táo, biến của nó là túc sái; tai hại của nó là thương vẫn (vàng úa, rơi rụng) [51]

Bắc phương sinh ra hàn, hàn sinh ra Thủy, đức của nó là lạnh lẽo, hóa của nó là yên lặng, chính của nó là ngưng túc (đóng lại, giá lạnh), bệnh của nó là hàn, sự biến của nó là lẫm lạt (rét run); tai hại của nó là băng bộc sương tuyết (băng: nước rắn lại như đá; Bộc mưa đá) [52].

Vậy ta chỉ xét ở sự “động” đó, cũng có đủ (đức, hóa, chính, bệnh, biến, tai...” Muôn vật đều theo, mà người cũng không ra khỏi phạm vi đó (1) [53].

Hoàng Đế nói:

Phụ tử nói: về tuế “hậu” ở thái quá và bất cập, mà trên ứng với ngũ tinh. Giờ như: đức, hóa, chính, lệnh, tai, sảnh, biến dịch... Không phải là sự có thường. Nếu thốt nhiên mà động, đối với ngũ tinh, có biến dịch không?

Kỳ Bá thưa rằng:

Theo thiên vận để thi hành, nên không có vọng, động, hết thảy có ứng. Nếu thống nhiên mà động là sự giao biến của khí. Cũng có khi không ứng. Cho nên có câu nói: “Chỉ ứng với sự thường, không ứng với sự thốt nhiên”. Tức là nghĩa đó (1) [55].

Hoàng Đế hỏi:

Sự ứng như thế nào? [56]

Kỳ Bá thưa rằng:

Điều theo về khí hóa (1). Cho nên tuế vận thái quá, thời úy tinh thất sắc, và lây tới cả mẹ nó. Nếu bất cập thời sắc cũng kiêm cả “sở bất thắng” (2) [57].

Hoàng Đế hỏi:

Sự động, tĩnh, tổn, ích của đức, hóa, chính, lệnh, như thế nào [58]?

Kỳ Bá thưa rằng:

Đức, hóa, chính, lệnh, tai biến, không thể xen lẫn vào nhau (1). Thắng, phục, thịnh, suy không thể làm cho thêm hơn (2). Văng, lai, đại, tiểu, không thể bỏ lỡ (3). Cái hiệu dụng về sự thăng giáng, không thể nào không có (4). Đều do ở sự động mà báo phục đó thôi (5) [59].

Hoàng Đến hỏ:

Bệnh sinh ra như thế nào [60]?

Kỳ Bá thưa rằng:

Khí tương thắng thời ḥa, không tương thắng thời bệnh; lại cảm thêm tà khí, thời nặng (1) [61].

气交变大论篇第六十九

黄帝问曰:五运更治,上应天期,阴阳往复,寒暑迎随,真邪相薄,内外分离,六经波荡,五气顷移,太过不及,专胜兼并,愿言其始,而有常名,可得闻乎?岐伯稽首再拜对曰:昭乎哉问也!是明道也。此上帝所贵,先师传之,臣虽不敏,往闻其旨。帝曰:余闻得其人不教,是谓失道,传非其人,慢泄天宝。余诚菲德,未足以受至道,然而众子哀其不终,愿夫子保于无穷,流于无极,余司其事,则而行之奈何?岐伯曰:请遂言之也。《上经》曰:夫道者上知天文,下知地理,中知人事,可以长久,此之谓也。帝曰:何谓也?岐伯曰:本气位也,位天者,天文也;位地者,地理也;通于人气之变化者,人事也。故太过者先天,不及者后天,所谓治化而人应之也。

帝曰:五运之化,太过何如?岐伯曰:岁木太过,风气流行,脾土受邪。民病飧泄,食减,体重,烦冤,肠鸣腹支满,上应岁星。甚则忽忽善怒,眩冒巅疾。化气不政,生气独治,云物飞动,草木不宁,甚而摇落,反胁痛而吐甚,冲阳绝者死不治,上应太白星。

岁火太过,炎暑流行,金肺受邪。民病疟,少气咳喘,血溢血泄注下,嗌燥耳聋,中热肩背热,上应荧惑星。甚则胸中痛,胁支满胁痛,膺背肩胛间痛,两臂内痛,身热骨痛而为浸淫。收气不行,长气独明,雨水霜寒,上应辰星。上临少阴少阳,火燔(火芮),冰泉涸,物焦槁,病反谵妄狂越,咳喘息鸣,下甚血溢泄不已,太渊绝者死不治,上应荧惑星。

岁土太过,雨湿流行,肾水受邪。民病腹痛,清厥意不乐,体重烦冤,上应镇星。甚则肌肉萎,足痿不收,行善瘈,脚下痛,饮发中满食减,四支不举。变生得位,藏气伏,化气独治之,泉涌河衍,涸泽生鱼,风雨大至,土崩溃,鳞见于陆,病腹满溏泄肠鸣,反下甚而太谿绝者,死不治,上应岁星。

岁金太过,燥气流行,肝木受邪。民病两胁下少腹痛,目赤痛眥疡,耳无所闻。肃杀而甚,则体重烦冤,胸痛引背,两胁满且痛引少腹,上应太白星。甚则喘咳逆气,肩背痛,尻阴股膝髀(月耑)(骨行)足皆病,上应荧惑星。收气峻,生气下,草木敛,苍干凋陨,病反暴痛,胁不可反侧,咳逆甚而血溢,太冲绝者,死不治,上应太白星。

岁水太过,寒气流行,邪害心火。民病身热烦心,躁悸,阴厥上下中寒,谵妄心痛,寒气早至,上应辰星。甚则腹大胫肿,喘咳,寢汗出憎风,大雨至,埃雾朦郁,上应镇星。上临太阳,雨冰雪,霜不时降,湿气变物,病反腹满肠鸣溏泄,食不化,渴而妄冒,神门绝者,死不治,上应荧惑辰星。

帝曰:善。其不及何如?岐伯曰:悉乎哉问也!岁木不及,燥乃大行,生气失应,草木晚荣,肃杀而甚,则刚木辟著,悉萎苍干,上应太白星,民病中清,胠胁痛,少腹痛,肠鸣溏泄,凉雨时至,上应太白星,其谷苍。上临阳明,生气失政,草木再荣,化气乃急,上应太白镇星,其主苍早。复则炎暑流火,湿性燥,柔脆草木焦槁,下体再生,华实齐化,病寒热疮疡疿胗痈痤,上应荧惑太白,其谷白坚。白露早降,收杀气行,寒雨害物,虫食甘黄,脾土受邪,赤气后化,心气晚治,上胜肺金,白气乃屈,其谷不成,咳而鼽,上应荧惑太白星。

岁火不及,寒乃大行,长政不用,物荣而下,凝惨而甚,则阳气不化,乃折荣美,上应辰星,民病胸中痛,胁支满,两胁痛,膺背肩胛间及两臂内痛,郁冒朦昧,心痛暴瘖,胸腹大,胁下与腰背相引而痛,甚则屈不能伸,髋髀如别,上应荧惑辰星,其谷丹。复则埃郁,大雨且至,黑气乃辱,病溏腹满,食饮不下,寒中肠鸣,泄注腹痛,暴挛痿痹,足不任身,上应镇星辰星,玄谷不成。

岁土不及,风乃大行,化气不令,草木茂荣,飘扬而甚,秀而不实,上应岁星,民病飧泄霍乱,体重腹痛,筋骨繇复,肌肉(目闰)酸,善怒,藏气举事,蛰虫早附,咸病寒中,上应岁星镇星,其谷黅。复则收政严峻,名木苍凋,胸胁暴痛,下引少腹,善太息,虫食甘黄,气客于脾,黅谷乃减,民食少失味,苍谷乃损,上应太白岁星。上临厥阴,流水不冰,蛰虫来见,藏气不用,白乃不复,上应岁星,民乃康。

岁金不及,炎火乃行,生气乃用,长气专胜,庶物以茂,燥烁以行,上应荧惑星,民病肩背瞀重,鼽嚏血便注下,收气乃后,上应太白星,其谷坚芒。复则寒雨暴至,乃零冰雹霜雪杀物,阴厥且格,阳反上行,头脑户痛,延及囟顶发热,上应辰星,丹谷不成,民病口疮,甚则心痛。

岁水不及,湿乃大行,长气反用,其化乃速,暑雨数至,上应镇星,民病腹满身重,濡泄寒疡流水,腰股痛发,膕(月耑)股膝不便,烦冤,足痿,清厥,脚下痛,甚则跗肿,藏气不政,肾气不衡,上应辰星,其谷秬。上临太阴,则大寒数举,蛰虫早藏,地积坚冰,阳光不治,民病寒疾于下,甚则腹满浮肿,上应镇星,其主黅谷。复则大风暴发,草偃木零,生长不鲜,面色时变,筋骨并辟,肉(目閏)瘛,目视(目巟)(目巟),物疏璺,肌肉胗发,气并鬲中,痛于心腹,黄气乃损,其谷不登,上应岁星。

帝曰:善。愿闻其时也。岐伯曰:悉乎哉问也!木不及,春有鸣条律畅之化,则秋有雾露清凉之政。春有惨凄残贼之胜,则夏有炎暑燔烁之复。其眚东,其藏肝,其病内舍胠胁,外在关节。

火不及,夏有炳明光显之化,则冬有严肃霜寒之政。夏有惨凄凝冽之胜,则不时有埃昏大雨之复。其眚南,其藏心,其病内舍膺胁,外在经络。

土不及,四维有埃云润泽之化,则春有鸣条鼓拆之政。四维发振拉飘腾之变,则秋有肃杀霖霪之复。其眚四维,其藏脾,其病内舍心腹,外在肌肉四支。

金不及,夏有光显郁蒸之令,则冬有严凝整肃之应。夏有炎烁燔燎之变,则秋有冰雹霜雪之复。其眚西,其藏肺,其病内舍膺胁肩背,外在皮毛。

水不及,四维有湍润埃云之化,则不时有和风生发之应。四维发埃骤注之变,则不时有飘荡振拉之复。其眚北,其藏肾,其病内舍腰脊骨髓,外在谿谷(月耑)膝。夫五运之政,犹权衡也,高者抑之,下者举之,化者应之,变者复之,此生长化成收藏之理,气之常也,失常则天地四塞矣。故曰:天地之动静,神明为之纪,阴阳之往复,寒暑彰其兆,此之谓也。

帝曰:夫子之言五气之变,四时之应,可谓悉矣。夫气之动乱,触遇而作,发无常会,卒然灾合,何以期之?岐伯曰:夫气之动变,固不常在,而德化政令灾变,不同其候也。帝曰:何谓也?岐伯曰:东方生风,风生木,其德敷和,其化生荣,其政舒启,其令风,其变振发,其灾散落。南方生热,热生火,其德彰显,其化蕃茂,其政明曜,其令热,其变销烁,其灾燔(火芮)。中央生湿,湿生土,其德溽蒸,其化丰备,其政安静,其令湿,其变骤注,其灾霖溃。西方生燥,燥生金,其德清洁,其化紧敛,其政劲切,其令燥,其变肃杀,其灾苍陨。北方生寒,寒生水,其德凄沧,其化清谧,其政凝肃,其令寒,其变凓冽,其灾冰雪霜雹。是以察其动也,有德有化,有政有令,有变有灾,而物由之,而人应之也。

帝曰:夫子之言岁候,不及其太过,而上应五星。今夫德化政令,灾眚变易,非常而有也,卒然而动,其亦为之变乎?岐伯曰:承天而行之,故无妄动,无不应也。卒然而动者,气之交变也,其不应焉。故曰:应常不应卒,此之谓也。帝曰:其应奈何?岐伯曰:各从其气化也。

帝曰:其行之徐疾逆顺何如?岐伯曰:以道留久,逆守而小,是谓省下;以道而去,去而速来,曲而过之,是谓省遗过也;久留而环,或离或附,是谓议灾与其德也;应近则小,应远则大。芒而大倍常之一,其化甚;大常之二,其眚即也;小常之一,其化减;小常之二,是谓临视,省下之过与其德也。德者福之,过者伐之。是以象之见也,高而远则小,下而近则大,故大则喜怒迩,小则祸福远。岁运太过,则运星北越,运气相得,则各行以道。故岁运太过,畏星失色而兼其母,不及则色兼其所不胜。肖者瞿瞿,莫知其妙,闵闵之当,孰者为良,妄行无徵,是畏候王。

帝曰:其灾应何如?岐伯曰:亦各从其化也。故时至有盛衰,凌犯有逆顺,留守有多少,形见有善恶,宿属有胜负,徵应有吉凶矣。

帝曰:其善恶,何谓也?岐伯曰:有喜有怒,有忧有丧,有泽有燥,此象之常也,必谨察之。帝曰:六者高下异乎?岐伯曰:象见高下,其应一也,故人亦应之。

帝曰:善。其德化政令之动静损益皆何如?岐伯曰:夫德化政令灾变,不能相加也。胜复盛衰,不能相多也。往来小大,不能相过也。用之升降,不能相无也。各从其动而复之耳。

帝曰:其病生何如?岐伯曰:德化者气之祥,政令者气之章,变易者复之纪,灾眚者伤之始,气相胜者和,不相胜者病,重感于邪则甚也。

帝曰:善。所谓精光之论,大圣之业,宣明大道,通于无穷,究于无极也。余闻之,善言天者,必应于人,善言古者,必验于今,善言气者,必彰于物,善言应者,同天地之化,善言化言变者,通神明之理,非夫子孰能言至道欤!乃择良兆而藏之灵室,每旦读之,命曰《气交变》,非斋戒不敢发,慎传也。