THIÊN
8: BẢN THẦN
Hoàng
Đế hỏi Kỳ Bá rằng: Phàm các phép châm, trước
hết ắt phải dựa vào cái “gốc”, đó là
‘thần’ [1]. Huyết mạch doanh khí tinh thần,
tất cả đều do ngũ tạng ‘tàng chứa’
[2]. Nếu sự sống đến mức dâm dật làm
cho tạng khí bị phân ly sẽ đưa đến t́nh
trạng tinh khí bị thất, hồn phách bay xa, chí ư
bị hoảng loạn, trí lự rời khỏi thân, nguyên
nhân nào đă gây nên như thế ? Trời đất
bắt tội ư ? Lỗi ở con người ư ? [3]
Thế nào gọi là đức khí sinh ra tinh, thần,
hồn, phách, tâm, ư, chí, tư, trí, lự ? Xin được
hỏi nguyên nhân của vấn đề” [4].
Kỳ
Bá đáp : “Cái của Trời ‘ở nơi’ ta,
gọi là ‘đức’, cái của Đất ‘ở nơi’
ta gọi là ‘khí’ [5]. Cái ‘thiên đức’ lưu hành
xuống dưới, cái ‘địa khí’ giao lên trên mà
tạo thành sự ‘sinh (hóa)’ vậy[6]. Cho nên cái mà, khi
sự sống bắt đầu có th́ nó đă có,
gọi là ‘tinh’[7]. Hai ‘tinh’ đánh nhau gọi là
‘thần’[8]. Tùy theo ‘thần’ văng lai gọi là
‘hồn’ [9]. Cùng với tinh khí ‘xuất nhập’
gọi là ‘phách’ [10]. Đóng vai tṛ xử trí tṛn
vẹn với sự vật gọi là ‘Tâm’[11]. Cái ‘tâm’
‘chứa, nhớ’ gọi là ‘ư’[12]. Nơi ‘ǵn
giữ’ cái ‘ư’ gọi là ‘chí’[13]. Nhân có cái ‘chí’
mà có thể ‘ǵn giữ’ hoặc ‘biến hóa’
gọi là ‘tư’[14]. Nhân có cái ‘tư’ mà chúng ta có
thể ‘vươn cái tinh’ của chúng ta để ‘thích
nghi’ với sự vật gọi là ‘trí’[15]. Cho nên,
bậc ‘trí’ khi ‘dưỡng sinh’, ắt phải
thuận với tứ thời và thích ứng được
với hàn thử, phải ḥa được sự hỉ
nộ để ở yên , phải “tiết (chế)”
được với Âm Dương để điều
ḥa được với cương nhu[16]. Được
vậy th́ tà khí không đến (để tấn công),
chúng ta sẽ sống 1 cuộc sống trường sinh”
[17].
Cho
nên, người hay kinh sợ, tư lự th́ sẽ làm thương
‘thần’[18]. Thần bị tổn ‘thương’
sẽ bị khủng và cụ, lưu dâm không
ngừng[19]. Người hay bi ai th́ bên trong sẽ bị
‘động’, khí bị kiệt, bị tuyệt mà
mất dần sức sống[20]. Người thường
hỉ lạc th́ thần bị sợ hăi và tán đi
chứ không giữ lại được[21]. Người
hay ưu sầu sẽ làm cho khí bị bế tắc không
vận hành được [22]. Người hay thịnh
nộ th́ sẽ bị mê hoặc và bất trị
(loạn) [23]. Người hay khủng cụ th́ thần
bị sợ hăi mà phóng túng không thu về được
[24].
Khi
nào Tâm hay kinh sợ, tư lự th́ sẽ làm thương
thần[25]. Thần bị ‘thương’ sẽ bị
khủng và cụ rồi tự mất, làm cho các bắp
thịt bị teo (phá), gầy thoát, lông bị héo, sắc
bị yểu, chết vào mùa đông[26].
Khi
nào Tỳ bị sầu ưu mà không giải được
th́ sẽ làm thương tổn đến ‘ư’, ‘ư’
bị ‘thương’ sẽ làm cho (nơi lồng
ngực) bị phiền loạn, tứ chi không cử động
được, lông bị héo, sắc bị yểu,
chết vào mùa đông[27].
Khi
nào Can bị bi ai mà bên trong bị ‘động’ th́
sẽ làm thương tổn đến hồn, hồn
bị ‘thương’ sẽ bị cuồng, bị vong (quên)
không c̣n ‘tinh’, không c̣n ‘tinh’ th́ tà khí vọng hành
bất chính, (người này) sẽ bị chứng âm súc
(teo bộ phận sinh dục) và gân co quắp, xương
sườn hai bên hông sẽ không nổi lên, lông bị héo,
sắc bị yểu, chết vào mùa thu[28].
Khi
nào Phế bị hỉ lạc đến vô vực th́
sẽ làm thương tổn đến phách, phách bị
‘thương’ sẽ bị cuồng, khi bị cuồng
th́ ‘ư’ sẽ làm cho (người bệnh) thấy
cạnh ḿnh không có ai khác, b́ cách bị nhăn nheo, lông
bị héo, sắc bị yểu, chết vào mùa hạ[29].
Khi
nào Thận bị thịnh nộ không ngừng th́ sẽ làm
thương đến ‘chí’, ‘chí’ bị thương
sẽ làm người ta hay quên những ǵ ḿnh đă nói,
cột sống thắt lưng làm cho không thể cúi
ngửa, co duỗi được, lông bị héo, sắc
bị yểu, chết vào mùa qúy hạ [30].
Khi
nào bị khủng và cụ đến không giải
được th́ sẽ làm thương tổn đến
‘tinh’, tinh bị thương th́ cốt bị ê ẩm,
nuy quyết, tinh thường bị xuất ra[31].
Cho
nên, ngũ tạng chủ về tàng tinh, chúng ta không
thể làm thương đến nó, nếu làm thương
th́ (ngũ tạng) sẽ bị thất thủ (không c̣n
được bảo vệ) đưa đến âm khí
bị hư [32]. Âm khí bị hư th́ không c̣n khí,
không c̣n khí th́ sẽ chết [33]. Cho nên, người
dụng châm phải quan sát bệnh thái của người
bệnh, nhằm để biết sự c̣n mất
của ‘tinh, thần, hồn, phách’, nắm cho thành cái
ư đắc thất [34]. Nếu ngũ tạng khí đă
bị thương, th́ việc châm trị sẽ không thành
công được [35].
Can
tàng huyết, huyết xá ( chứa) hồn, khi Can khí hư
th́ hay khủng, thực th́ hay nộ [36].
Tỳ
tàng doanh, doanh chứa ư, khi Tỳ hư th́ làm cho tứ
chi không làm việc được nữa, ngũ tạng
sẽ bất an, thực th́ bụng bị trướng,
đường tiểu bị bất lợi [37].
Tâm
tàng mạch, mạch chứa thần, khi Tâm khí hư th́
hay bi, thực th́ hay cười không thôi[38].
Phế
tàng khí, khí chứa phách, khi Phế hư th́ mũi bị
nghẹt, bất lợi (không thông), ngắn hơi,
thực th́ hơi thở gấp mà âm thanh to, ngực
bị đầy, phải ngước lên để
thở [39].
Thận
tàng tinh, tinh chứa chí, khi Thận khí hư th́ bệnh
quyết, thực th́ bị bệnh trướng [40].
Khi
ngũ tạng bất an, ắt phải thẩm sát bệnh
h́nh của ngũ tạng để biết được
sự hư thực của khí, điều ḥa 1 cách
cẩn trọng [41].
本神篇第八
黃帝問於岐伯曰:凡刺之法,必先本於神。血脈營氣精神,此五臟之所藏也。至於淫泆離臟則精失、魂魄飛揚、志意恍亂、智慮去身者,何因而然乎?天之罪歟?人之過乎?何謂德氣生精神魂魄心意志思智慮?請問其故。岐伯答曰:天之在我者德也,地之在我者氣也,德流氣薄而生者也。故生之來謂之精,兩精相搏謂之神,隨神往來者謂之魂,並精而出入者謂之魄,所以任物者謂之心,心有所憶謂之意,意之所存謂之志,因志而存變謂之思,因思而遠慕謂之慮,因慮而處物謂之智。故智者之養生也,必順四時而適寒暑,和喜怒而安居處,節陰陽而調剛柔,如是則僻邪不至,長生久視。
是故怵惕思慮者則傷神,神傷則恐懼流淫而不止。因悲哀動中者,竭絕而失生。喜樂者,神憚散而不藏。愁憂者,氣閉塞而不行。盛怒者,迷惑而不治。恐懼者,神蕩憚而不收。心怵惕思慮則傷神,神傷則恐懼自失,破(月囷)脫肉,毛悴色夭,死於冬。脾愁憂而不解則傷意,意傷則悗亂,四肢不舉,毛悴色夭,死於春。肝悲哀動中則傷魂,魂傷則狂忘不精,不精則不正,當人陰縮而攣筋,兩脅骨不舉,毛悴色夭,死於秋。肺喜樂無極則傷魄,魄傷則狂,狂者意不存,人皮革焦,毛悴色夭,死於夏。腎盛怒而不止則傷志,志傷則喜忘其前言,腰脊不可以俛仰屈伸,毛悴色夭,死於季夏。恐懼而不解則傷精,精傷則骨痠痿厥,精時自下。是故五臟主藏精者也,不可傷,傷則失守而陰虛,陰虛則無氣,無氣則死矣。是故用鍼者,察觀病人之態,以知精神魂魄之存亡,得失之意,五者已傷,鍼不可以治之也。
肝藏血,血舍魂,肝氣虛則恐,實則怒。脾藏榮,榮舍意,脾氣虛則四肢不用,五臟不安,實則腹脹,經溲不利。心藏脈,脈舍神,心氣虛則悲,實則笑不休。肺藏氣,氣舍魄,肺氣虛則鼻塞不利少氣,實則喘喝胷盈仰息。腎藏精,精舍志,腎氣虛則厥,實則脹,五臟不安。必審五臟之病形,以知其氣之虛實,謹而調之也。