Đông y và một số vấn đề về ḥa hợp t́nh dục
Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN (Khoa Đông y - Viện Quân y 108)

 (Tiếp theo và hết)
T̀NH TRẠNG KHÔ ÂM ĐẠO
Đây thực chất là hiện tượng bất thường về tiết chất nhờn ở phụ nữ. Khi nữ nhân không tiết chất nhờn ở âm đạo cũng giống như nam nhân không cương cứng dương vật. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng này, nhưng trước hết là do người phụ nữ ít nhiều không có cảm hứng với bạn t́nh hoặc hoàn cảnh xung quanh thiếu thuận lợi. Sự ham muốn và khoái cảm t́nh dục suy giảm th́ tất yếu t́nh trạng bài tiết chất nhờn ở âm đạo cũng bị rối loạn. Một số phụ nữ v́ sợ đau, sợ có thai, bị tổn thương, không được tôn trọng mà lượng chất nhờn tiết ra bị suy giảm. Người phụ nữ vào thời kỳ măn kinh nếu không được điều trị nội tiết thay thế hay những người bị viêm âm đạo, bị tổn thương tuyến tiết nhờn quan trọng (tuyến Bartholin) do nhiều nguyên nhân khác nhau cũng dẫn đến t́nh trạng khô rát âm đạo. Hậu quả cuối cùng gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng sinh hoạt t́nh dục, giao hợp khó khăn do đau, do giảm sút ham muốn và khoái cảm.
Trong y học cổ truyền, hiện tượng khô âm đạo được gọi là chứng "Âm khô" hoặc "Âm đạo can táo", có liên quan mật thiết với sự rối loạn công năng của ba tạng là can, thận và tỳ, khiến cho âm đạo không được thận tinh, khí huyết và tân dịch nuôi dưỡng đầy đủ nên kém nhu nhuận mà phát sinh thành bệnh. Về trị liệu, ngoài việc chú trọng tạo ra một đời sống t́nh cảm vợ chồng ḥa hợp mà cổ nhân gọi là "tâm b́nh khí ḥa" th́ người phụ nữ cần phải dùng thêm thuốc theo quan điểm "biện chứng luận trị", nghĩa là phải căn cứ vào các chứng trạng hiện có mà lựa chọn bài thuốc và vị thuốc cho phù hợp. Cụ thể:
Thể thận âm bất túc: Âm đạo khô khan, khi giao hợp đau đớn khó chịu, tâm trạng buồn phiền dễ cáu giận, đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi, ḷng bàn tay và bàn chân nóng, miệng khô họng khát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác. Nên chọn dùng bài thuốc Bổ thiên đại tạo hoàn gia giảm gồm: Đẳng sâm 15g, hoàng kỳ 10g, bạch truật 10g, cao quy bản 12g, lộc giác giao 12g, sơn thù 10g, thục địa 15g, kỷ tử 15g, a giao 10g, nữ trinh tử 15g, tang thầm 30g, nhục thung dung 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Thể thận dương hư nhược: Lănh cảm, khi giao hợp âm đạo khô rát, giảm sút ham muốn và khoái cảm t́nh dục, sợ lạnh, tứ chi lạnh, đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi, đại tiện lỏng nát, chất lưỡi nhợt, mạch trầm tŕ vô lực. Nên lựa chọn bài thuốc Noăn thận trợ hỏa thang gia giảm gồm: Đẳng sâm 15g, hoàng kỳ 10g, bạch truật 15g, lộc giác giao 10g, cao quy bản 10g, ba kích 10g, sa tiền tử 15g, nhục thung dung 12g, tiên linh tỳ 10g, hoài sơn 15g, khiếm thực 12g, phúc bồn tử 12g, phụ tử chế 6g, kỷ tử 15g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Thể khí huyết bất túc: Giảm hoặc mất ham muốn và khoái cảm t́nh dục, khi giao hợp âm đạo khô rát, toàn thân mệt mỏi, sắc mặt trắng nhợt hoặc vàng úa, có cảm giác khó thở và hồi hộp trống ngực, dễ vă mồ hôi, chán ăn, đại tiện lỏng nát, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt, mạch trầm vô lực. Nên chọn dùng bài thuốc Bát trân thang gia giảm: Đẳng sâm 20g, hoàng kỳ 12g, bạch truật 10g, bạch linh 10g, đương quy 10g, xuyên khung 6g, sinh địa 15g, thục địa 15g, tiên linh tỳ 10g, ba kích 10g, thỏ ty tử 10g, nhục thung dung 10g, a giao 10g, lộc giác phấn 1g, cam thảo 6g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Thể can uất khí trệ: Âm đạo khô rát, giao hợp đau, dễ cáu giận, đầu choáng mắt hoa, ngực bụng đầy tức, hay thở dài, kinh nguyệt không đều, thống kinh, miệng đắng, mạch huyền sác. Nên chọn dùng bài thuốc Sài hồ sơ can tán gia giảm: Sài hồ 10g, bạch thược 12g, đương quy 10g, chỉ xác 10g, xuyên luyện tử 10g, thông thảo 3g, xuyên sơn giáp 6g, quất diệp 10g, vương bất lưu hành 5g, thiên hoa phấn 12g, nhục thung dung 15g, cam thảo 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Để tiện sử dụng, cũng có thể dùng một đơn thuốc chung làm cơ bản rồi tiến hành gia giảm tùy theo bệnh trạng của mỗi người. Ví dụ: 1/ Sinh địa 30g, mạch môn 15g, huyền sâm 12g, tri mẫu 10g và sa sâm 20g, sắc uống; 2/ Sinh địa 30g, thục địa 30g, kỷ tử 10g, mạch môn 10g, sa sâm 10g, sơn thù 10g, đương quy 10g, đan sâm 20g, bạch hoa xà thiệt thảo 20g, bán chi liên 20g, sắc uống; Giao hợp đau gia bạch thược, xuất huyết gia tam thất, viêm âm đạo gia tri mẫu và hoàng bá, thiếu máu gia bạch sâm.
Ngoài ra, có thể kết hợp dùng các món ăn - bài thuốc và ngâm rửa âm bộ bằng dung dịch thuốc. Ví dụ: 1/ Dùng long nhăn 100g, vừng đen 40g, tang thầm (quả dâu chín) 50g, ngọc trúc 30g, mạch môn 30g, sắc kỹ 3 lần lấy 3 nước rồi ḥa lẫn vào nhau, tiếp tục cô đặc bằng lửa nhỏ, khi được cho thêm mật ong với tỷ lệ 1:1, đun sôi, để thật nguội rồi đựng vào lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1-2 th́a với nước ấm; 2/ Dùng hà thủ ô 30g, sinh địa 30g, huyền sâm 30g, thiên môn 30g, bạch tiên b́ 30g, sắc kỹ lấy nước bỏ bă rồi đem ngâm rửa âm bộ từ 10-15 phút, mỗi ngày 1 lần.
TẦN SUẤT SINH HOẠT T̀NH DỤC
Tần suất sinh hoạt t́nh dục để chỉ số lần giao hợp trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là một vấn đề rất phức tạp và tồn tại nhiều quan điểm khác nhau giữa các nhà t́nh dục học. Chỉ số này phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố như tuổi tác, t́nh trạng sức khỏe, tŕnh độ nhận thức, nghề nghiệp, niềm tin tôn giáo, điều kiện khí hậu, truyền thống và đặc tính văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia... và đặc biệt là sự lựa chọn của các cặp bạn t́nh. Có những đôi vợ chồng mới cưới một đêm sinh hoạt mấy lần cũng không bị coi là nhiều, miễn sao sau đó cả hai người đều cảm thấy thoải mái và khỏe mạnh, không có các hiện tượng như lưng đau, gối mỏi, đầu choáng mắt hoa, tinh thần uể oải...
Nhiều người cho rằng tần suất quan hệ t́nh dục của các cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh sản có thể dao động từ 0 đến 15-20 lần/tuần, b́nh quân mỗi ngày 1 lần được coi là tần suất cao, mỗi tháng 1 lần được coi là thấp và tần suất giao hợp tỷ lệ thuận với tuổi, tuổi càng cao th́ chỉ số càng thấp. Một nghiên cứu khá thú vị trên 100 nam giới ở Mỹ trong độ tuổi từ 35-50 cho thấy: Đa số người được hỏi nói rằng họ giao hợp từ 1 đến 4 lần/tuần, 1/3 giao hợp 1 lần/tuần và chỉ có 4% khẳng định họ giao hợp quá 1 lần/tuần. Một nghiên cứu thăm ḍ khác ở Mỹ trong những năm 50 do Kinsey tiến hành cho thấy tần suất sinh hoạt t́nh dục ở những cặp vợ chồng có độ tuổi từ 20-30 là 3 lần/tuần, từ 31-40 là 2 lần/tuần, từ 41-50 là 1-2 lần/tuần và từ 51-55 là 1 lần/tuần. Năm 1974, Hite (Mỹ) nhận xét tần suất giao hợp của người Mỹ tăng dần theo mốc thời gian, nếu như những năm 40 các cặp vợ chồng sinh hoạt trung b́nh mỗi tuần là 2-3 lần th́ đến những năm 70, chỉ số này là 3-4 lần. Trong thập niên 90, những cặp vợ chồng có độ tuổi từ 20-40 nếu lao động thể lực th́ tần suất giao hợp là 3,7 lần/tuần, nếu lao động trí óc th́ 2,8 lần/tuần.
Ở phương Đông xưa, quan điểm của cổ nhân về vấn đề này cũng được ghi chép khá nhiều trong các sách như Tố nữ kinh, Ngọc pḥng bí quyết, Thiên kim phương, Ngự nữ chi pháp, Tố nữ chi pháp, Dưỡng danh huấn... Ví dụ sách Tố nữ kinh đă viết: "Người ta thân thể cường nhược khác nhau, niên tuế cũng trẻ già khác nhau cho nên phải tùy theo khí lực của ḿnh mà giao hợp, không được cưỡng quyết, cưỡng quyết tất tổn hại đến thân" và cũng đă chỉ rơ: Ở tuổi 15 mà khí lực dồi dào mỗi ngày giao hợp và có thể xuất tinh 2 lần, ốm yếu th́ mỗi ngày 1 lần; Ở tuổi 20 cũng vậy, không nên nhiều hơn, nghĩa là mạnh mẽ th́ một ngày 2 lần, không khỏe th́ mỗi ngày 1 lần;
Ở tuổi 30 mà khỏe mỗi ngày 1 lần, người ốm yếu th́ 2 ngày 1 lần; Ở tuổi 40 khỏe mạnh th́ 2 ngày 1 lần, ốm yếu th́ 4 ngày 1 lần; Ở tuổi 50 khỏe mạnh th́ 5 ngày 1 lần, ốm yếu th́ 10 ngày lần; Ở tuổi 60 khỏe mạnh th́ cỡ 10 ngày 1 lần, ốm yếu th́ 20 ngày 1 lần; Ở tuổi 70 khỏe mạnh th́ mỗi tháng 1 lần, ốm yếu th́ kiêng cữ không nên xuất tinh. Sách Ngọc pḥng bí quyết th́ cho rằng: Người ở tuổi 20 thường 2 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 30 thường 3 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 40 thường 4 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 50 thường 5 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 60 th́ không bao giờ nên xuất tinh.
Có thể thấy tần suất sinh hoạt t́nh dục của người xưa thấp hơn nhiều so với người thời nay. Một số ư kiến cho rằng: Người xưa giải quyết vấn đề theo nguyên lư âm dương, tất cả do âm dương bảo tồn sinh khí (xúc nhi bất tiết), từ đó mà tần suất giao hợp thấp; Người thời nay giải quyết vấn đề theo nguyên lư thực tế, vả lại người thời nay cường tráng và ít bệnh tật hơn người thời xưa nên tần suất giao hợp nhiều hơn; Một bên thiên về "thể" (cái bản thể, căn cơ của giao hợp), một bên thiên về "nhục" (cái thực tế, ước muốn của vấn đề giao hợp) cho nên có sự khác biệt. Trong y thư kinh điển Hoàng đế nội kinh có một đoạn bàn về vấn đề này rất nên suy ngẫm: "Người thời thượng cổ họ đều biết rơ phép tắc dưỡng sinh, thể theo quy luật âm dương, điều ḥa với thuật số, ăn uống có điều độ, làm lụng và nghỉ ngơi có chừng mực, không lao lực một cách bừa băi, cho nên thể xác và tinh thần đều khỏe mạnh, sống măi đến lúc trời cho trăm tuổi mới chết. C̣n người ngày nay th́ sống không theo kiểu ấy, ham uống rượu như uống nước, coi sự sai trái như sinh hoạt b́nh thường, làm kiệt hết tinh khí, hao tổn chân nguyên, không biết giữ ǵn tinh khí cho nghiêm túc, thường sử dụng tinh lực quá mức, chỉ cốt thỏa ḷng một lúc, làm trái ngược với sự vui thú của lẽ dưỡng sinh, cho nên mau thấy già yếu".