Phan Tả Diệp vị thuốc vừa kinh điển vừa hiện đại
Phan tả diệp đă được người Ai
Cập biết đến và sử dụng làm thuốc
nhuận tràng, thuốc tẩy từ hơn 3.500 năm
về trước. Sau đó thuốc được
đưa vào các nước châu Âu và từ nước
khác trên thế giới. Hiện nay, phan tả diệp
đang được coi là vị thuốc kinh điển
và được dùng rất phổ biến cả trong
Đông y và Tây y.
Phan tả diệp là lá chét của 2 loài thuộc chi Cassia:
Cassia angustifolia Vahl và Cassia acutifolia Del, thuộc họ Đậu
(Fabaceae), phân họ Vang (Caesalpinioideae).
Cây C.angustifolia có nguồn gốc từ ả Rập,
mọc hoang nhiều ở Yêmen, Xumali; được
trồng ở nam ấn Độ, nhiều nhất là vùng
Tinnevelly. C̣n C.acutifolia có nguồn gốc từ Châu Phi,
mọc hoang và được trồng nhiều ở Xuđăng.
Hiện nay phan tả diệp c̣n được trồng
ở một số nước như: Udơbekistan,
Tatgikistan.
Thành phần hóa học có tác dụng dược lư trong
phan tả diệp đă được nhiều tài
liệu đề cập đến, đó là các dẫn
chất anthranoid có tác dụng nhuận tràng và tẩy. Quan
trọng nhất là các chất sennosid A,B,C và D. Ngoài ra c̣n
có một số ít anthraglycosid khác. Các chất anthaglycosid
rất dễ tan trong nước, khi vào cơ thể qua
đường tiêu hóa không bị hấp thu ở
ruột non, chúng xuống ruột già. ở đây, dưới
tác dụng của enzym glucosidase của hệ vi khuẩn
ruột, các glycosid sẽ bị thủy phân thành các aglycon
và ose. Các aglycon có cấu trúc dạng khử(sennidin, rhein -
anthron...) sẽ có tác dụng kích thích ruột già làm tăng
nhu động ruột và tăng bài tiết dịch
nhầy (tác dụng nhuận tràng và tẩy) ngay sau khi
được tạo thành. C̣n các chất có cấu trúc
dạng ôxy hóa (rhein, aloe - emorin...) th́ sẽ bị khử
rồi mới có tác dụng.
Do quá tŕnh chuyển hóa như vậy, cho nên các chế
phẩm có anthranoid nói chung và phan tả diệp nói riêng
được dùng với tác dụng giúp sự tiêu hóa,
nhuận và tẩy thường được uống vào
buổi tối sau khi ăn hoặc trước khi đi
ngủ và đó cũng là lư do tại sao thuốc có tác
dụng chậm sau khi uống (10-12giờ).
Phan tả diệp được dùng trong những trường
hợp ăn uống không tiêu, bụng đầy trướng,
táo bón, dưới dạng hăm hoặc sắc với
liều lượng khác nhau tùy theo tác dụng. Thường
dùng 1-2/ngày sẽ có tác dụng hỗ trợ quá tŕnh tiêu
hóa, với liều 3-4g/ngày sẽ có tác dụng nhuận
tràng giúp cho việc đào thải chất cặn bă,
độc hại tồn đọng gây độc cho
đường tiêu hóa, hạn chế được
sự sinh sôi nẩy nở các loài vi sinh vật đường
ruột có hại. Với liều 5-7g/ngày sẽ có tác
dụng tẩy.
Ngoài anthranoid, trong phan tả diệp c̣n có các dẫn
chất flavonoid - là hợp chất thiên nhiên có tác
dụng sinh học không kém phần quan trọng. Phải chăng
đây là thành phần không những đóng vai tṛ
hiệp đồng tác dụng của phan tả diệp mà
c̣n bổ sung thêm một số tác dụng rất đặc
hiệu của flavonoid, ví dụ như:
* Tác dụng của vitamin P: Làm tăng sức bền và tính
đàn hồi của thành mạch máu, làm giản tính ḍn,
dễ vỡ của thành mạch. Vitamin P là yếu tố
rất cần thiết và không thể thiếu được
trong dự pḥng và điều trị những bệnh gây
tổn thương sức bền của mao mạch, như
bệnh tăng huyết áp, xơ cứng mạch, các trường
hợp xung huyết, xuất huyết v.v...
* Tác dụng chống ôxy hóa: Khi vào cơ thể flavonoid
sẽ tạo phức với các ion kim loại (Fe+2. Cu+2...)
là những chất xúc tác của nhiều phản ứng
ôxy hóa sinh ra gốc tự do hoạt động. Đồng
thời flavonoid c̣n có khả năng triệt tiêu những
gốc tự do hoạt động để tạo thành
những sản phẩm không gốc, cắt đứt dây
chuyền phản ứng ôxy hóa lipid, góp phần làm ổn
định màng tế bào, làm tăng sức bền
của màng, loại trừ các tác nhân gây độc
hại, ngăn ngừa một số nguy cơ biến
dị, hủy hoại tế bào, tai biến mạch... do
gốc tự do gây nên.
Do đó nếu dùng phan tả diệp với công thức
và liều lượng hợp lư sẽ giúp tiêu hóa
tốt hơn, đồng thời cơ thể sẽ c̣n
được cung cấp thêm vitamin P và các chất
chống ôxy hóa rất cần thiết cho việc pḥng và
chữa một số bệnh hiểm nghèo.
Một số điều cần lưu ư khi dùng phan tả
diệp
- Do thuốc kích thích ruột già làm tăng tiết
dịch nhầy, cho nên nếu dùng phan tả diệp
liều cao và kéo dài sẽ gây mất nhiều protein và
những dịch chất khác của ruột, cơ thể
sẽ gầy, yếu và có thể bị rối loạn tiêu
hóa.
- Không dùng phan tả diệp cho người bị viêm bàng
quang, hẹp kết tràng, ph́nh ruột già, phụ nữ có
thai và đang cho con bú.
TS. Bế Thị Thuấn
(Ngày: 24-12-2002 - Theo Báo SK&ĐS)