Y học cổ truyền: Điều trị liệt bằng thuốc đông y  
BS. Nguyễn Trường Tộ (Hội Đông y tỉnh Nghệ An)

Bại liệt là một bệnh khá phổ biến, thường gặp ở mọi lứa tuổi. Đây là một chứng bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra nhưng phần lớn là do cơ thể suy tổn, âm dương khí huyết mất thăng bằng, lại nhiễm phải thấp lâu ngày mà sinh ra, cũng có thể do di chứng của trúng phong kinh lạc tạng phủ thường gặp ở người già hoạt động của tạng tâm, tạng can, tạng thận bị giảm sút gây các hiện tượng âm hư, sinh đờm, phong động gây co giật, hôn mê mà chuyển thành bán thân bất toại.
Ngoài ra đàn bà sau khi sinh đẻ nhiễm phải phong hàn khí huyết ngưng trệ cũng gây ra bại liệt ở hai chi dưới.
Trẻ em trong mùa xuân - hè cảm phải phong thấp quá nặng gây sốt cao, gân cốt trẻ c̣n non yếu, cũng dễ chuyển thành bại liệt tay và chân.
Nói chung, chứng trạng chủ yếu là tay chân gân thịt tê dại không vận động được đưa đến mềm nhũn, hôn mê hoặc nửa người dưới bị bại liệt, nặng th́ liệt cả tứ chi toàn thân tê bại, teo cơ, làm cho tay chân thân h́nh bị dị dạng. Việc điều trị bệnh thường kéo dài rất tốn kém. V́ vậy, phải điều trị càng sớm càng tốt, điều trị phải tích cực bằng nhiều phương pháp có thể kết hợp cả đông tây y, xoa bóp, châm cứu, chích lễ, v.v... ở đây, chúng tôi xin giới thiệu một số phương thuốc mà chủ yếu là dùng thuốc nam và một số cách dùng thuốc có hiệu quả điều trị cao.
Bài thuốc 1: (thuốc sắc). Rễ nho hùm (sao rượu), cốt toái bổ (sao rượu), rễ bướm bạc (rang vàng), khương hoạt, rễ độc lực (cam trời) sao vàng, rễ cổ hạc (xích thược), tỳ giải, rễ cỏ thẹn (trinh nữ thảo), rễ nam pḥng kỷ (ngón đất), rễ bưởi bung (rang vàng), pḥng kỷ, độc hoạt, rễ ngưu tất (cỏ xước), u chạc ch́u (nam xuyên khung), uy linh tiên.
Các vị thuốc trên liều lượng đều bằng nhau cho vào nồi đổ nước ngập thuốc sắc kỹ (c̣n 1/3 số nước bỏ vào). Ngày uống 2 lần mỗi lần khoảng 400ml, khi uống thêm vào một chén con rượu uống lúc nóng trước bữa ăn. Nếu tay bại th́ cho thêm: quế chi, tang chi; Nếu chân bại th́ thêm: tỳ ngải. Lúc uống bài thuốc trên nên kết hợp với thuốc dùng ngoài để bóp với bài thuốc sau: Lá ngải cứu và xích phấn đằng (dây ch́a vôi) liều lượng bằng nhau, giă nhỏ, thêm đồng tiện (nước tiểu trẻ em) vào xào nóng đắp ở chỗ đau và các phần chi bị liệt ngày 1-2 lần.
Bài thuốc 2: (thuốc uống)
Rễ ô rô 16g, rễ cỏ xước 16g, rễ cỏ tranh 16g, rễ ngón đất 16g, u chạc ch́u 12g, rễ cỏ thẹn 8g, rễ độc lực 8g, rễ chành châu 12g, cam thảo dây 8g, quế chi 12g, hy thiêm 16g, gừng tươi 5 lát.
Tất cả các vị thuốc đều rang vàng cho vào nồi đất đổ 3 bát nước sắc c̣n 1 bát chia làm 2 lần uống nóng trong ngày trước bữa ăn.
Bài thuốc 3: (bài thuốc hoàn)
Mă tiền 20g, độc hoạt 12g, thiên ma 12g, mộc qua 12g, tang kư sinh 12g, cam thảo 8g, thương truật 12g, pḥng kỷ 12g, ngưu tất 12g, thổ kư sinh 12g, quế chi 12g, phục tử (chế) 12g.
Tất cả các vị thuốc trên đều tán nhỏ dùng hồ làm viên bằng hạt đậu sấy khô bảo quản. Cách dùng: người lớn ngày uống 2 lần mỗi lần 7-10 viên. Trẻ dưới 4 tuổi mỗi lần uống 1-2 viên. Trẻ từ 5-15 tuổi mỗi lần 3-5 viên.
Bài thuốc 4: (bài thuốc ngâm rượu)
Mộc qua 160g (tẩm rượu sao), xuyên khung 40g, khương hoạt 40g, đảng sâm 80g, thiên ma 40g, tần giao 40g, bạch thược 40g (sao rượu), cốt toái bổ 80g, thiên niên kiện 80g, thỏ ty tử 40g, thương truật 80g, độc hoạt 40g, ngưu tất 40g, thục địa 40g (sao rượu), pḥng phong 40g, uy linh tiên 80g, ngũ gia b́ 80g.
Cách chế: tất cả các vị thuốc đều thái mỏng cho vào hũ sành đổ vào 4 lít rượu ngon bịt miệng lọ thật chặt, đặt vào trong một cái nồi to đổ nước ngập 2/3 hũ bắc lên bếp nấu cách thủy. Trước khi nấu lấy một nắm thóc gói vào một miếng vải treo cạnh hũ thuốc. Đun vừa lửa nấu kỹ đến lúc mở gói thóc ra thấy hạt thóc đă nở x̣e là được. Đem hũ thuốc ra để nguội chôn xuống đất 3 ngày đêm (72 giờ) rồi đào lên mà dùng.
Mỗi ngày uống 2 lần trước bữa ăn; mỗi lần uống 1 chén con. Lúc uống thuốc này cần kiêng các chất sống lạnh. Tuy nhiên phụ nữ có thai không được dùng.

BS. Nguyễn Trường Tộ (Hội Đông y tỉnh Nghệ An)