NGŨ VỊ TỬ  

( SCHIZANDRA SINENSIS BAILL )  

 

Mô tả cây : Cây bắc ngũ vị tử là một loại dây leo to, có thể mọc dài đến 8m, vỏ cành màu xám nâu với kẽ sần nổi rõ, cành nhỏ hơi có cạnh. Lá mọc so le, cuống lá nhỏ, dài 1,5- 3cm, phiến lá hình trứng rộng, dài 5-11cm, rộng 3-7cm, mép có răng cưa nhỏ, mặt trên sẫm hơn, gân lá non thường có lông ngắn. Hoa đơn tính, khác gốc, cành hoa màu vàng trắng nhạt, có mùi thơm, cánh hoa 6-9, nhị 5, quả mọng hình cầu, đường kính 5-7mm, khi chín có màu đỏ sẫm, trong chứa 1-2 hạt. Tại Trung Quốc mùa hoa 5-7, mùa quả 8-9.

Thành phần hoá học : Bắc ngũ vị tử có tinh dầu mùi chanh, với thành phần chủ yếu gồm 30% hợp chất sesquitecpen, 20% andehyt và xeton, quả chứa 11% axit xitric, 7-8,5% axit malic, 0,8% axit tactric, vitamin C và chừng 0,12% schizandrin, thịt chứa 1,5% đường, tanin, chất màu, hạt chứa khoảng 34% chất béo gồm glixerit của axit oleic và linoleic

     Schizandrin là một chất có tinh thể, không có nitơ. Trong cho có sắt, photpho, mangan, silicium và canxi. Không thấy glucozit hay ancaloit.

Tính vị, tác dụng : Ngũ vị tử vị chua, mặn, tính ôn, không độc, vào hai kinh phế và thận. Có tác dụng liễm phế, cố thận, cố tinh, chỉ mồ hôi, dùng làm thuốc trừ đờm, tu bổ, cường âm, ích khí, bổ ngũ tạng, thêm tinh trừ nhiệt.

Công dụng : Trong đông y ngũ vị tử là một vị thuốc  dùng chữa ho, hơi thở hổn hển, ho khan, còn dùng làm thuốc cường dương, chữa liệt dương và mệt mỏi, biếng hoạt động. Tuy nhiên đối với những người có biểu tà, có thực nhiệt thì không nên dùng. Trong tây y ngũ vị tử được dùng làm thuốc kích hệ thần kinh trung ương, trong trường hợp lao động chân tay và trí óc quá độ, mệt mỏi về tinh thần và thể lực, uể oải buồn ngũ. Dùng dưới dạng cồn thuốc, bột hay thuốc viên.