NHỤC ÐẦU KHẤU

( MYRISTICA  FRAGRANS  HOUTT )

Mô tả cây : Nhục đầu khấu là một cây to, cao 8-10m. toàn thân nhẵn. Lá mọc so le, xanh tươi quanh năm, dai, phiên lá hình mác rộng, dài 5-15cm, rộng 3-7cm, mép nguyên, cuống lá dài 7-12mm. Hoa khác gốc mọc thành xim ở kẻ lá, có dáng tán. Màu hoa vàng trắng. Quả hạch, hình cầu hay quả lê, màu vàng. Ðường kính 5-8cm, khi chín nở theo chiều dọc thành hai mảnh, trong có một hạt có vỏ dầy cứng, bao bọc bởi một áo hạt bị rách, màu hồng.

Thành phần hoá học : Nhục đầu khấu có chứa tinh bột, chất protit, chừng 40% chất béo đặc gọi là bơ nhục đầu khấu , 8-15% tinh dầu và 3-4% chất nhựa. Tinh dầu nhục đầu khấu là một chất lỏng không mau hay hơi vàng nhạt, mùi thơm, vị nóng, gồm hỗn hợp các chất pinen và camphen quay phải, dipenten, cồn tecpenic 6%, một ít eugenon và safrol, chất miristixin v.v.

Myristixin có tinh thể màu vàng có độc.

Tính vị, tác dụng : Ðông y ghi tính chất của nhục đầu khấu là vị cay, tính ôn, hơi độc, vào 3 kinh tỳ, vị và đài trương có năng lực ôn tỳ, sáp tràng, chỉ nôn, chỉ tả lỵ, tiêu thực, chữa lạnh bụng, đau bụng, đầy chướng, phàm nhiệt tả, nhiệt lỵ, và bệnh mới phát chớ có dùng.

Công dụng : Nhục đầu khấu là một vị thuốc dùng để kích thích tiêu hoá, làm thuốc kích thích chung trong các trường hợp kém ăn, sốt rét. Dùng dưới dạng thuốc bột hay dạng viên. Ngày uống 0,25-0,50g. có khi có thể dùng 2-4g. nhưng dùng liều quá cao có thể gây ngộ độc. Bơ đầu khấu dùng xoa bớp ngoài chữa tê thấp, đau người.