SƠN THÙ DU

( CORNUS  OFFICINALIS  SIEB. ET  ZUCE. )

Mô tả cây : Cây nhỏ cao chừng 4m, vỏ thân xám nâu, cành nhỏ không có lông. Lá đơn, mọc đối, có cuống ngắn, phiến lá hình trứng dài 5-7cm, rộng 3-4,5cm, đầu nhọn, đáy tròn, mép nguyên, 5-7 đôi gân phụ. Hoa nở trước, lá mọc thành tán. Hoa nhỏ, màu vàng, 4 lá dài, 4 cành tràng, 4 nhị, bầu hạ. Quả hạch hình trái xoan, dài 1,2-1,5cm, đường kính 7mm, khi chín có màu đỏ tươi, nhẵn, nhưng khi khô nhăn nheo hình mạng, cuống quả dài 1,5-2cm. Hạch hình trứng. Mùa hoa tháng 5-6, mùa quả 8-10.

Thành phần hoá học : Theo kết quả nghiên cứu của hệ dược viện y học Bắc Kinh, 1958 thì trong sơn thù có 13% saponozit, phản ứng tanin. Theo tài liệu khác thì trong sơn thù có các axit hữu cơ và một chất có tinh thể và có độ chảy 2450C, phản ứng axit, ngoài ra còn chứa một glucozit gội là cocnin. Trong quả có morronizit, metyl morronizit, sworzit, loganin. Ngoài ra còn axit ursolic, axit tactric, axit malic, axit gallic và ước chừng 13% saponin. Lá chưa longixerozit, secologanin. Trong lá tươi phát hiên thấy vitamin E và C.

Tính vị, tác dụng : Theo taì liệu cổ sơn thù có vị chua, sáp, tính hơi ôn, vào hai kinh can và thận, sáp tính , chỉ hàn ( làm cho tính khí bền, cầm không ra mồ hôi).

Công dụng : Thường dùng chữa di tinh, tiểu tiện ra tinh dịch, tiểu tiện nhiều lần, kinh nguyệt không đều, mồ hôi trộm. Hiện nay người ta chỉ dùng sơn thù theo kinh nghiệm cổ trong những đơn thuốc dùng nhiều vị thuốc như bài lục vị hay lục vị địa hoàng để chữa những người tinh khí không kiên, hay đi tiểu, tai ù điếc do tuổi đã già hay do thận kém, mắt vàng do can hư. Ngoài ra theo nghiên cứu mới, người ta còn dùng vỏ cây sơn thù du để chữa sốt rét, vị sơn thù dùng làm thuốc thu liễm, thuốc bổ. Mỗi ngày dùng 6-12 dưới dạng thuốc sắc hay thuốc ngâm rượu dùng riêng hay phối hợp với nhiều vị thuốc khác.