THƯỜNG SƠN
( DICHROA FEBRIFUGA )
Tên
cây : Thường
sơn, thường sơn tía, ô rô lửa, thục tất, áp niệu thảo, sleng slảo
mè (Tày).
Mô tả :
Cây nhỏ, cao 1 - 2m. Thân nhẵn, màu lục hoặc tím nhạt. Lá mọc đối,
mép có răng cưa. Cuống lá và gân giữa có màu tím. Cụm hoa hình xim
mọc ở ngọn thân hoặc kẽ lá. Hoa màu xanh lam hoặc hồng tím. Quả mọng
màu lam hoặc tím. Hạt nhỏ, hình quả lê. Tránh nhầm với cây thường
sơn trắng (Gendarussa ventricosa Nees) và thường sơn Nhật Bản (Phlogacanthus
turgidus Nich.).
Phân bố :
Cây mọc hoang ở rừng núi, chỗ ẩm mát ven suối.
Bộ phận dùng :
Rễ và lá. Rễ thu hái vào thu đông, phơi hoặc
sấy khô, khi dùng tẩm rượu, sao vàng. Lá hái vào xuân hạ, sao vàng
hoặc đồ chín, phơi khô.
Thành phần
hóa học : Rễ chứa
các alcaloid : (-dichroin, (-dichroin, (-dichroin và 4-ketodihydroquinazolin.
Công dụng
: Chữa sốt, sốt
rét, sốt cách nhật, long đờm, thông tiểu tiện. Dùng sống hay gây nôn,
do vậy dùng thuốc sắc từ lá, rễ đã tẩm rượu sao vàng, ngày 6 -
12g, hoặc dùng alcaloid toàn phần. Dùng riêng hoặc trong công thức phối
hợp với một số cây khác.